Poem logo
Poem logo

lời người bắt rắn

Tác giả: Liểu Tông Nguyên
Liễu Tông Nguyên (773─819): Là một trong “Đường Tống Bát Đại Văn Gia”, (tám nhà văn lớn thời Đường, Tống: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt, Vương An Thạch, Tăng Củng). Tuổi niên thiếu đã nổi tiếng kỳ tài văn chương. Năm 20 tuổi đỗ tiến sĩ, đồng khoa với Lưu Vũ Tích, được bổ chức Hiệu thư lang. Năm 30 tuổi được tể tướng bấy giờ là Vương Thúc Văn để ý đến văn tài, cho thăng chức Lễ bộ viên ngoại lang. Vương Thúc Văn ý muốn liên kết các nhân tài trong triều như Liễu Tông Nguyên, Lưu Vũ Tích, Lữ Ôn tiến hành cải cách triều đình, trừ khử hoạn quan đang lộng quyền. Chẳng may vua Đức Tông bệnh nặng, nhường ngôi cho em là Hiến Tông; nhân đó hoạn quan khôi phục quyền bính, Vương Thúc Văn cùng đồng bạn bị biếm trích đi xa. Liễu Tông Nguyên bị giáng làm Tư mã ở Vĩnh Châu, tức địa phận tỉnh Hồ Nam hiện nay. Ở đây nhân thấy dân chúng khổ sở vì sưu cao thuế nặng, lại có người liều mình đi bắt rắn độc để được miễn thuế thân, nên ông làm bài “Bổ Xà Giả Thuyết” này. Liễu Tông Nguyên ở Vĩnh Châu được 10 năm; sau đó, năm 815, được bổ làm Thứ sử Liễu Châu. Ông mất ở Liễu Châu vào năm 819. (Theo www.epochtimes.com).

捕蛇者說
Bổ Xà Giả Thuyết

柳宗元
Liễu Tông Nguyên

永州之野產異蛇:
Vĩnh châu chi dã sản dị xà:
黑質而白章,
Hắc chất nhi bạch chương,
觸草木盡死;
Súc thảo mộc tận tử;
以齧人, 無禦之者.
Dĩ khiết nhân vô ngự chi giả.
然得而腊之以為餌,
Nhiên đắc nhi lạp chi dĩ vi nhị,
可以已大風、攣踠、瘻癘,
Khả dĩ dĩ đại phong, loan uyển, lâu lệ
去死肌,殺三蟲.
Khứ tử cơ, sát tam trùng.
其始太醫以王命聚之,
Kỳ thuỷ thái y dĩ vương mệnh tụ chi,
歲賦其 二;
Tuế phú nhị kỳ;
募有能捕之者,當其租入.
Mộ hữu năng bổ chi giả, đương kỳ tô nhập.
永之人爭奔走焉.
Vĩnh Châu chi nhân tranh bôn tẩu yên.

有蔣氏者,專其利三世矣.
Hữu Tưởng thị giả, truyền kỳ lợi tam thế hĩ.
問之,則曰:
Vấn chi, tất viết:
“吾祖死於是, 吾父死於是,
“Ngô tổ tử ư thị, ngô phụ tử ư thị.
今吾嗣為之十二年,幾死者數矣.”
Kim ngô tự vi chi thập nhị niên, cơ tử giả sổ hĩ.”
言之貌若甚戚者.
Ngôn chi mạo nhược thậm thích giả.
余悲之,且曰:
Dư bi chi, thả viết:
“若毒之乎? 余將告於蒞莅事者,
“Nhược độc chi hồ? Dư tương cáo ư lị sự giả,
更若役,復若賦,則如何?”
Cánh nhược dịch, phục nhưọc phú, tắc hà như?
蔣氏大慼, 汪然出涕, 曰:
Tưởng thị đại thích, uổng nhiên xuất thế, viết:
“君將哀而生之乎?
“Quân tương ai nhi sanh chi hồ?
則吾斯役之不幸,
Tắc ngô tư dịch chi bất hạnh,
未若復吾賦不幸之甚也.
Vị nhược phục ngô phú bất hạnh chi thậm dã.
嚮吾不為斯役,則久已病矣.
Hướng ngô bất vi tư dịch, tắc cửu dĩ bệnh hĩ.
自吾氏三世居是鄉,積於今六十歲矣.
Tự ngô thị tam thế cư thị hương, tích ư kim lục thập tuế hĩ.
而鄉鄰之生日蹙,
Nhi hương lân chi sinh nhật túc,
殫其地之出,竭其廬之入.
Đàn kỳ địa chi xuất, kiệt kỳ lư chi nhập.
號呼而轉徙, 餓渴而頓踣.
Hào hô nhi chuyển tỉ, ngạ khát nhi đốn phấu.
觸風 雨, 犯寒暑,
Xúc phong vũ, phạm hàn thử,
呼噓毒癘, 往往而死者, 相藉也.
Hô hư độc lệ, vãng vãng nhi tử giả, tương tạ dã.
曩與吾祖居者,
Nãng dữ ngô tổ cư giả,
今其室十無一焉.
Kim kỳ thất thập vô nhất yên.
與吾父居者,
Dữ ngô phụ cư giả,
今其室十無二三焉.
Kim kỳ thất thập vô nhị tam yên.
與吾居十二年者,
Dữ ngô cư thập nhị niên giả,
今其室十無四五焉.
Kim kỳ thất thập vô tứ ngũ yên.
非死即徙爾,
Phi tử tắc tỉ nhĩ
而吾以捕蛇獨存.
Nhi ngô dĩ bổ xà độc tồn.
悍吏之來吾鄉,
Hãn lại chi lai ngô hương,
叫囂乎東西, 隳突乎南北;
Khiếu hiêu hồ đông tây, huy đột hồ nam bắc.
譁然而駭者, 雖雞狗不得寧焉.
Hoa nhiên nhi hãi giả, tuy kê cẩu bất đắc ninh yên.
吾恂恂而起,
Ngô tuân tuân nhi khởi,
視其缶, 而吾蛇尚存,
Thị kỳ phẩu, nhi ngô xà thượng tồn,
則弛然臥.
Tắc thỉ nhiên ngoạ.
謹食之, 時而獻 焉.
Cẩn tự chi, thời nhi hiến yên.
退而甘食其土之有, 以盡吾齒.
Thoái nhi cam thực kỳ thổ chi hữu, dĩ tận ngô xỉ.
蓋一歲之犯死者二焉,
Cái nhất tuế chi phạm tử giả nhị yên,
其餘則熙熙而樂,
Kỳ dư tắc hi hi nhi lạc,
豈若吾鄉鄰之旦旦有是哉.
Khởi nhược ngô hương lân chi đán đán hữu thị tai.
今雖死于此,
Kim tuy tử vu thử,
比吾鄉鄰之死則已後矣,
Tỉ ngô hương lân chi tử tắc dĩ hậu hĩ,
又安敢毒耶?”
Hựu an cảm tội da?”

余聞 而愈悲,
Ngô văn nhi dũ bi,
孔子曰:“苛政猛於虎也!”
Khổng Tử viết: “ Hà chính mãnh ư hổ dã!”
吾嘗疑乎是,
Ngô thường nghi hồ thị,
今以蔣氏觀之, 猶信.
Kim dĩ Tưởng thị quan chi, do tín.
嗚呼!孰知賦斂之毒,
Ô hô! Thục tri phú liễm chi độc,
有甚於是蛇者乎!
Hữu thậm ư xà giả hồ!
故為之說,
Cố vi chi thuyết,
以俟夫觀人風者得焉.
Dĩ sĩ phù quan nhân phong giả thị đắc yên.

Lời Người Bắt Rắn.

Đồng Vĩnh Châu có giống rắn lạ,
Thân đen vằn trắng,
Bò ngang cũng làm héo cỏ cây;
Cắn phải người, vô phương cứu chữa.
Vậy mà thịt sả làm khô thì ăn nên thuốc,
Trừ được đại phong, loan uyển, lâu lệ.(1)
Cứu được bệnh hiểm, diệt được ung sang.
Trước thái y phụng mạng thâu liễm,
Lệ mỗi năm trưng nạp hai lần,
Kén người bắt rắn, cho miễn thuế thân.
Dân Vĩnh Châu tranh nhau theo nghiệp ấy.

Có nhà họ Tưởng kia,
Nghề truyền đã ba đời.
Hỏi ra thì đáp:
“Ông tôi chết vì nó, cha tôi cũng chết vì nó.
Còn tôi nối nghiệp kể đã mười hai năm,
Mà đã mấy lần vào sanh ra tử.”
Đáp lời ta mà mặt chừng đau đớn lắm.
Ta chạnh lòng mới bảo:
“Thật độc lắm thay,
Hãy để ta riêng cáo việc ngươi cùng ty lại,
Bỏ sưu dịch, trở lại nạp thuế, nên chăng?”
Họ Tưởng hốt hoảng, nước mắt ròng ròng:
“Ngài vì thương tôi mà muốn cứu tôi,
Dẫu việc sưu dịch có là điều bất hạnh,
Song bỏ sưu mà nạp thuế thì tôi càng bất hạnh hơn.
Nếu không bắt rắn, tôi hẳn khốn đốn lâu rồi,
Nhà tôi ba đời ở đây kể đã sáu mươi năm.
Mà xóm làng sinh nhai cùng cực,
Thuế nặng sưu cao, vét đất bòn nhà chẳng đủ.
Cùng nhau bỏ đi, đói khát ngã dọc đường,
Đội mưa gió, nhiễm nóng lạnh,
Ốm thoi thóp, nối nhau mà chết.
Trước cùng ở với ông tôi,
Nay mười nhà không còn một;
Cùng ở với cha tôi,
Nay mười nhà còn chẳng được đôi ba;
Cùng ở với tôi mười hai năm trước,
Nay mười nhà còn chưa được bốn năm.
Nếu không chết cũng bỏ đi,
Chỉ có tôi nhờ bắt rắn mà sống đến giờ.
Kẻ lại dữ đến làng,
Hạch sách đầu trên xóm dưới, tra khảo trong nhà ngoài ngõ.
Người người hớt hải run sợ, đến gà chó cũng chẳng yên.
Tôi ren rén sẽ dậy,
Hé hũ dòm, thấy rắn vẫn còn,
Mới yên dạ đi nằm.
Cẩn trọng nuôi ăn, đợi hồi dâng nạp.
Còn mình thì cào bới đất vườn,
Được chi ăn nấy, qua ngày cho hết kiếp.
Thế mỗi năm chỉ liều chết hai lần,
Còn kỳ dư sống hớn hở yên vui,
Há có như xóm giềng ngày ngày chịu khổ.
Nay có vì vậy mà chết,
So với người cũng còn hậu hĩ hơn,
Sao lại cho là độc?"

Ta nghe mà bi thương...
Khổng Tử xưa nói:
“Chính trị hà khắc độc hơn hổ dữ.”
Ta vốn thường vẫn ngờ,
Nay, nhân chuyện họ Tưởng mà tin.
Than ôi!
Thế mới biết sưu thuế là độc,
So ra rắn nọ chẳng bằng.
Nay xin chép lại chuyện này,
Mong người xem xét dân tình thấy ra.

Trương Củng phỏng dịch
_______________________
Chú thích:
1)Đại phong: thấp khớp; loan uyển: động kinh; lâu lệ: mạch lươn sinh mủ.

Ý kiến bạn đọc

TÌM KIẾM BÀI THƠ
Nhập từ khóa:
Tìm kiếm