tế chiêu quân
[Nguyên tác chữ Hán của Tản Đà, Nguyễn Thiện Kế dịch Nôm]
Cô ơi cô đẹp nhất đời
Mà cô mệnh bạc, thợ trời cũng thua!
Một đi từ biệt cung vua
Có về đâu nữa! Đất Hồ nghìn năm!
Mả xanh còn dấu còn căm
Suối vàng lạnh lẽo, cô nằm với ai?
Má hồng để tiếc cho ai
Đời người như thế có hoài mất không?
Khóc than nước mắt ròng ròng
Xương không còn vết, giận không còn kỳ!
Mây mờ trăng bạc chi chi
Hôi tanh thôi có mong gì khói nhang!
Ới hồng nhan, hỡi hồng nhan!
Khôn thiêng cũng chẳng ai van ai mời
Trời Nam thằng kiết là tôi
Chùa Tiên, đất khách, khóc người bên Ngô
Cô với tôi, tôi với cô
Trước sân lễ bạc có mồ nào đây
Hồn cô ví có ở đây
Đem nhau đi với, lên mây cũng đành!
Và đây là bài Văn Tế Chiêu Quân của Tản Đà. Nhà thơ Núi Tản, Sông Đà viết về bài thơ:
" Bài này khi tôi ở chơi Chùa Tiên viết bằng chữ Nho để tế nàng Chiêu Quân giữa đêm hôm 13 Tháng Ba năm Duy Tân thứ bẩy. Sau về đến Nam Định, quan Huyện Nẻ mới dịch ra nôm cho. Tản Đà."
VĂN TẾ CHIÊU QUÂN
Sắc diễm tuyệt thế
Mệnh bạc vô thiên
Hán cung nhất biệt
Hồ điạ thiên niên
Thanh trủng lưu hận
Hoàng tuyền cô miên
Thương tai hồng nhan
Y hồ nãi nhiên
Ô hô Chiêu Quân..!
Phương cốt hữu tận
U hám vô kỳ
Minh nguyệt độc cử
Ám vân không thùy
Tinh chiên phỉ loại
Điếu tế y thùy
Thương tai hồng nhan
Linh hồn hà t ?
Hiếu
Thiên Nam cùng sĩ
Sơn Tây tiên sinh
Cách đại, dị quốc
Cộng bi đồng tình
Viên trân phỉ lễ
Vọng bái trung đình
Hồn lễ dư tá
Giá dĩ dư hành.
Tản Đà