Oanh liệt thay cho những người chiến sĩ
Của triều Trần, dũng cảm lại kiên gan,
Đã ba lần lấy máu giữ giang san,
Đem chiến thắng huy hoàng về đất Việt!
Chống Mông Cổ hung tàn và mãnh liệt
Tiếng kiêu hùng như sấm dậy trời Đông,
Thế nghiêng trời, lệch đất, chuyển non sông,
Như bão tố đùng đùng lừng sát khí.
Chống Mông Cổ đã đem đoàn thiết kỵ
Hai lần sang đánh phá đất Đông Âu,
Mang điêu tàn theo vó ngựa long câu,
Nhuộm trời đất một màu sầu ảm đạm.
Đã đạp đổ dãi Trường Thành muôn dặm,
Kéo binh vào chiếm đoạt đất Trung Nguyên
Diệt Liêu, Kim, chinh phục nước Triều Tiên
Để xây dựng triều Nguyên bao lớn rộng.
Chống Mông Cổ đã đạp bằng đất Tống
Và quyết lòng thôn tính Việt Nam ta,
Mang binh hùng, tướng mạnh, dấy can qua,
Năm mươi vạn tràn qua như núi đổ.
Người chiến sĩ của triều Trần hăm hở
Quyết ra tài phá lỗ lập kỳ công.
Tuốt gươm thiêng, thề nguyện giữ non sông,
Tôi với chúa tạt lòng câu "Sát Đát".
Nắm tay nhau nhịp nhàng cao giọng hát,
Họ chẳng màng khổ cực với long đong,
Từ Khả Li, Kỳ Cấp đến Thăng Long
Sang Vạn Kiếp rồi lại về Thanh Hóa.
Bao thất bại chẳng làm sờn chí cả,
Bao hiểm nguy không nhục chí anh hào
Họ vẫy vùng lăn lộn giữa rừng đao,
Và nhắm bóng cờ đào luôn cất bước.
Tình yêu nước dậy trong lòng náo nức,
Nghĩa quân thần thúc giục tấm trung cang.
Lời hịch văn thống thiết đng tim gan
Của những kẻ dọc ngang trường huyết chiến.
Đông Bộ Đầu, dưới mây thu thao diễn
Khí hào hùng lay động bóng sao Ngưu (1),
Tướng cùng quân chung một chí tiêm cừu,
Thề đánh đuổi quân thù ra cõi Việt.
Ôi! Những kẻ trung trinh bao tráng liệt!
Những anh hùng khí tiết động trăng sao!
Ôi! Những lời muôn thủơ đáng nêu cao
Của kẻ nắm binh quyền, mưu chiến thắng! (2)
Ôi! Cái chết hào hùng mà bi tráng
Của tướng quân mang nặng nghĩa quân vương:
Thế cùng, thà làm quỉ ở Nam phương
Chẳng chịu nhục làm vương triều khuyết Bắc! (3)
Giữa giáo gươm rạng ngời trong trại giặc,
Lời ôn hòa mà khí sắc ung dung,
Trần Khắc Chung đi sứ đã nên công
Mà đảm lược thêm phục lòng tướng địch.
Mang niên thiếu băng mình trong kiếm kích,
Hoài Văn Hầu đã tỏ mặt kinh luân,
Mà ngọn cờ "Phá địch, báo hoàng ân" (4)
Nghìn muôn thuở vẫn còn lưu Việt sử.
Ôi những trận khiến long trời đất lở!
Những kỳ công rực rỡ đến muôn thu!
Bến Chương Dương, Quang Khải giết quân thù,
Cửa Hàm Tử, Chiêu Văn Vương phá địch.
Trận Tây Kết, Toa Đô tìm cái chết,
Lục Thủy Đầu, Văn Hổ khiếp uy danh
Bạch Đằng Giang vang dậy khúc quân hành
Của binh Việt hoan hô thần Chiến Thắng.
Sáu trăm năm đã qua mà bóng dáng
Của những người đã đánh đuổi quân Mông
Còn mông lung phảng phất giữa non sông
Như lưu luyến đất con Hồng cháu Lạc.
Và những đêm trời trong, mây sáng bạc,
Tôi còn mơ thấy những bóng quân binh
Nêu ngọn cờ đỏ rực khắp trời xanh,
Và khúc hát khải hoàn rung bóng nguyệt.
Hè 1943
Tài liệu tham khảo:
(1) Tam quân tỳ thổ chí thôn Ngưu (Phạm Ngũ Lão)
(2) Trần Thủ Độ: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo". Trần Quốc Tuấn: "Xin bệ hạ chém dầu thần trước rồi sẽ hàng".
(3) Trần Bình Trọng: "Ta thà làm quỉ nước Nam, không làm vương đất Bắc
(4) Cờ Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản đề sáu chữ: "Phá cường địch, báo hoàng ân".