quốc sỉ
Nhấp chén rượu mài gươm giận chém đá.
Tấc cô thần nghịch tử có ai chia?
Buổi Âu phong Á vũ vẫn còn mê.
Chưa thức giấc cùng ta tuyết quốc sỉ?
Vuông nhiễu đỏ chờ chờ hoen nét rỉ.
Thẹn những phường tranh chấp mượn tay ai.
Gương Minh vào Thanh đến, đến Tây lai.
Ngai vàng nặng để ê chề non nước.
Thẹn những kẻ quyền gian cướp xã tắc,
Bêu sống thửa, thác nhục chốn tha hương,
Dâng sổ đồ quỳ gối chốn biên cương,
Tiếng sét đánh hoảng hồn quân biếm chúa.
Thẹn những kẻ sinh ra con lợn chó.
Thân ăn nằm còn nghĩ đến ông cha.
Gác cửu trùng đau thảm chất muôn nhà,
Ðem dân nước phó cho làn sóng cả.
Thẹn những đứa cân đai mang xóng xả.
Chí đội trời đạp đất đã bù nhìn.
Chạy trước hưu, gớm lũ chó săn nền!
Chi trách được mụ Cù tâm dạ Hán!
Thẹn những kẻ miếu đình ngồi tướng tán.
Chén thanh trà, bôi hoàng tửu đỉnh chung,
Mặt diện tường sao biết chuyện ô long!
Con thuyền đổ sóng bèo ai giữ lái?
Thẹn những bác y ô chi lải nhải,
Mãi sân Trình, cửa Khổng, mãi Ba Lê!
Mộng hầu quan tứ xứ lạc đường quê.
Quê nước ở trong hồn người tự chủ.
Thẹn đất nước dưới chân giày uế xú.
Người Lâm Thao, Bến Ngự luống tâm cơ.
Mà bướm hồn, xuân nửa não lòng thơ.
Ðể đàn nhạn Cô Tô đài thoi thóp!
Thẹn dân nước trong sống còn ngoi ngóp.
Cũng vua quan, phẩm sắc, cũng giàu sang,
Miếng thịt xôi luồn lọt mà đỉnh đang,
Luống để thẹn nghìn năm người da ngựa.
Thẹn những phường thất phu xanh đỏ khố,
Cúng vênh vang ra phết bậc thầy cô.
Ðoái chăng ai Sát Thát lại Bình Ngô,
Quân hồn để sượng sùng gươm Vạn Thắng.
Thẹn những bậc yếm khăn chi lẵng đẵng,
Chẳng xem người mũi chỉ dục chinh nhân.
Cũng theo đòi những vãi Hậu Ðình Ngâm,
Ðể bứt rứt ánh trăng trầm cửa Hát.
Nghĩ đến sự nước nòi lòng tan nát.
Có ai còn nhớ chữ trượng phu chăng?
Núi Lam Sơn còn sống lại Thánh Vương
Ðể mở lại nước non nòi Ðại Việt.
4824 T.V
X.Y. Thái Dịch Lý Đông A
4823 tuổi Việt ( 1944 )
( trích trong Huyết Hoa )