quê hương và tình yêu
QUÊ HƯƠNG VÀ TÌNH YÊU
1
Em sắp say rồi !!! Uống nữa thôi ?
Cờ chưa tan cuộc vẫn còn chơi !!!
Giang hồ gác mái bên sông vắng,
Trăng nước thuyền khua- một trận cười .
2
Tình vẫn tràn như dòng nước chảy,
Thơ còn đầy tựa áng mây trôi.
Nửa đêm thức giấc hồn ngơ ngác,
Rưọu hết tìm em - tận cuối trời…
3
Cuối trời xin hẹn gặp lại em,
Cho ấm bờ vai mắt hữu tình.
Cho thắm bờ môi ngày tái ngộ,
Cho nồng hương lữa kiếp ba sinh,
4
Duyên xưa xuân đến bao lần gặp,
Tình cũ thu đi chẳng dễ tìm .
Rượu hết bên nhau chìm lối mộng,
Hoa đào một cánh nở nguyên trinh…
5
Nguyên trinh còn lại bao xuân nữa,
Lữa lựu hè sang đỏ thắm tường.
Bạn cũ trở về say hẹn ước,
Người xưa nhớ lại lúc tha hương.
6
Hoa trôi bến chợ đời lưu lạc,
Dế gọi vườn hoang cảnh đoạn trường.
Mẹ ngóng tin con mòn mõi đợi,
Tiếng gà xao xác gáy thềm sương.
7
Thềm sương tiếng cuốc gọi bên hè,
Giọng chị hò ơ dưới luỹ tre .
Giã gạo nuôi em ngày mẹ yếu,
Bồng con đứng đợị buổi anh về .
8
Canh rau tối ngủ còn lưng bụng,
Cơm nguội khuya nằm dạ tái tê .
Những tưởng ngày xuân tràn mộng đẹp,
Nào hay mưa dột chẳng tranh che.
9
Tranh che ta đắp bằng hương lữa,
Môi giữa bờ môi giữ mặn nồng .
Chẳng có chăn bông ngày ấm lạnh ,
Không thuyền đưa đón buổi qua sông.
10
Em thơ lội bộ giờ đi học,
Mẹ yếu thâu đêm bắt muỗi mòng .
Cảnh khổ ngày xưa ngồi nhớ lại,
Qua rồi năm tháng những long đong.
11
Long đong trên bước đường lưu lạc,
Bốn hướng về đâu dặm hải trình.
Biển rộng trời cao bằng sãi cánh,
Sông dài núi thẳm gót phiêu linh.
12
Công cha nghĩa mẹ còn chưa trả,
Ơn chị tình em hẹn đáp đền.
Nắng nhuộm rừng phong. Thu đã tới,
Bên hồ từng chiếc lá lênh đênh...
13
Lênh đênh như chiếc thuyền không bến,
Dòng ngược dòng xuôi vạn nẽo đời.
Trên bến dưới thuyền người tấp nập,
Sông hồ nước chảy lục bình trôi.
14
Sáng qua Phú Quốc trời êm ả,
Chiều ghé Côn sơn núi vẽ vời.
Mây nước xa trông về cố quận,
Nỗi lòng thương nhớ biết sao vơi...
15
Sao vơi lòng biển tình sông đó,
Cuả kiếp giang hồ với nước mây.
Lên bến đò chiều thương kẻ bắc,
Qua sông nắng sớm nhớ trời tây.
16
Thơ vương khói thuốc sầu vương nhạc,
Rượu hết đàn run phím lạc dây.
Cô lái đò xưa đưa lữ khách,
Sông buồn đôi mắt thấy cay cay…
17
Cay cay đôi mắt chiều xuân đó,
Cô gái ngày xưa chẳng trở về.
Gió núi đèn khuya vàng phố thị,
Trăng rừng sương lạnh trắng sơn khê .
18
Hoa không vạn cổ mà phong nhụy
Tình chẳng trăm năm cũng vẹn thề.
Lời của trăng nguyền dù bến cạn,
Rừng xanh núi thẳm chẳng phân ly…
19
Ly hương gặp lại mùa hoa nở,
Chim én bên trời vụt cánh bay,
Nhạn lạc bầy tìm nhau biển bắc,
Anh tìm em lội khắp trời tây.
20
Sáng lên New York sương mờ lạnh,
Chiều lại Boston tuyết phủ cây...
Anh trở về vui lòng phố thị ,
Em về rượu uống trắng đêm say...
21
Say cho bỏ những ngày dong ruổi,
Cho bỏ sầu đong lắc lại đầy .
Để nhớ gừng cay thương muối mặn,
Cho lòng ai vẫn nhớ thương ai.
22
Đêm về phố mộng sương giăng mắc,
Ngày lại mưa đông gió thổi mây.
Lánh đục cho dòng đời thanh thoát,
Để lòng vơi bớt nỗi niềm tây.
23
Niềm tây mây gởi buồn theo nắng
Ta gởi tơ lòng trãi bốn phương.
Bướm gởi hồn thơ qua lối mộng ,
Cho tình trả nợ kiếp tơ vương.
24
Ngẩn ngơ trăng cũng buồn theo gió,
Thơ thẩn sầu đong giữa nắng ngàn,
Thì thôi sầu ấy ngàn đêm lẻ,
Góp lại cho tròn gởi gió sương .
25
Gió sương từ độ bước quan hà,
Mưa nắng bên trời giọt lệ sa.
Xa nước bao đêm sầu cố quốc,
Tha hương ngàn dặm nhớ quê nhà.
26
Chín chiều ruột thắt bầm gan mẹ,
Một tấc lòng son xót dạ cha .
Mong ước sao khuya trời tỏ rạng ,
Mơ ngày mai lại cảnh phồn hoa
27
Phồn hoa mơ lại ngày ta gặp,
Tôi với em đi giữa phố phường.
Má đỏ son hồng còn thắm sắc,
Hoa cài aó trắng vẫn thiên hương.
28
Ngây thơ nhắc lại ngày hoa bướm,
Thờ thẩn rồi quên buổi tựu trường.
Kỹ niệm ngày xưa tràn ngập lối,
Đêm về thao thiết nhớ muôn phương.
29
Muôn phương bè bạn tình thân mến,
Của kiếp nhân gian giữa chợ đời,
Buổi loạn ly rồi bao kẻ khóc,
Ngày thanh bình lại lắm người vui.
30
Trăng về phố Hội mây giăng lối,
Thuyền ghé Đà giang sóng vẽ vời.
Núi Ngũ hành sơn năm ngọn tỏa,
Phượng hoàng xoè cánh đã ra khơi.
Chú thích:
[1] Ngũ hành sơn ,danh lam thắng cảnh đất Quảng nam,với truyền thuyết “ngũ phụng tề phi” năm phụng đồng bay . Đó là:
Theo văn bia tiến sĩ Mậu Tuất 1898 dựng trong khuôn viên di tích Văn Thánh Huế, thì khoa thi này, ngoài Đào Nguyên Phổ đỗ đầu với danh Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, những vị Tiến sĩ còn lại đều là Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.
1 Phạm Liệu 2Phan Quang 3 Phạm Tuấn4 Ngô Chuân 5 Dương Hiển Tiến [cả 5 vị trên đều đỗ tiến sĩ cùng khóa và cùng quê Quảng nam...
31
Ra khơi sóng tỏa muôn trùng thẳm,
Biển biếc trời xanh núi ngút ngàn.
Côn đảo mây che hè nắng đỗ,
Trường sa mưa tạnh buổi đông sang.
32
Ngựa hồ gió lạnh hí phương bắc, [1]]
Chim Việt đậu cành chọn hướng nam.
Ta giống Rồng Tiên dòng Lạc Việt ,
Làm sao tỏ mặt với lân bang…
Chú thích:
[ 1 ]Hồ mã tê Bắc phong, Việt điểu sào Nam chi.
Nghĩa là: Ngựa Hồ hí gió Bắc, Chim Việt ở cành Nam.
Chim Việt là loài chim sinh ở đất Việt, thuộc phía nam nước Tàu. Mỗi năm cứ đến đầu thu, từng đàn chim Việt bay sang phương Bắc để kiếm ăn. Vì khi thu sang, phương Bắc có nhiều chỗ có giống lúa mới vừa chín…dễ kiếm ăn.
Tuy sang phương Bắc nhưng đàn chim Việt vẫn nhớ quê hương. Muốn làm ổ, chúng chọn cành cây chĩa về phương Nam, tức là hướng quê nhà mà chúng sinh trưởng.
Chim Việt tức (Việt điểu) để chỉ chim nhớ quê hương cố quốc.
Ngựa Hồ là ngựa ở nước Hồ. Nước này ở về phương bắc nước Tàu mà ngày xưa người Tàu thường cho là nước man rợ hay cũng gọi là Phiên quốc. Ngựa Hồ cao lớn, leo núi rất giỏi, chạy rất nhanh. Người Trung Quốc thường mua về làm ngựa chiến . Nước Hồ vốn ở xứ lạnh , khi đông về, gió bấc thổi, tuyết rơi lả tả, gió lạnh tê tái.
Ngựa Hồ tuy về Trung Quốc, là nơi tương đối ấm áp nhưng vẫn nhớ đến đất Hồ , mỗi độ đông về khi có gió bấc lạnh [là gió từ phương bắc thổi đến, ngựa cất tiếng hí lên thê thảm tỏ lòng nhớ cố quốc.
"Chim Việt ngựa Hồ" trở nên thành ngữ, có nghĩa bóng là loài vật mà cũng không quên nơi quê cha đất tổ , dù ở nơi đất khách quê người.
33
Lân bang có kẻ ưa dòm ngó,
Sự nghiệp cơ đồ của tổ tiên.
Hoa thắm trời Nam ngàn thế hệ,
Non xanh đất Việt trải ba miền.
34
Đằng Giang bẩy địch xua Nam Hán,[1]
Vạn Kiếp điều binh đuổi giặc Nguyên.[2]
Con cháu đồng lòng chung nghiệp cả,
Lo chi non nước chẳng bình yên…
Chú thích:
[1] Trận Bạch Đằng, năm 938 [.wikipedia.]
Năm 937, thế lực họ Kiều ở châu Phong tổ chức binh biến, giết chết Dương Đình Nghệ, đưa Kiều Công Tiễn lên nắm quyền, Công Tiễn tự xưng Tiết độ sứ. Hành động này đã gặp phải sự phản ứng mạnh mẽ của các thế lực hào trưởng các địa phương, thậm chí chính nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Ngô Quyền, với danh nghĩa là bộ tướng và con rể của vị cố Tiết độ sứ, đồng thời cũng là người đứng liên minh Ngô - Dương, tập hợp lực lượng tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn hoảng sợ, vội vã sai người sang cầu cứu nhà Nam Hán. Nam Hán Cao Tổ sai con trai là thái tử Lưu Hoằng Tháo đem hai vạn quân, dùng chiến thuyền, xâm lăng.
Năm 938, Ngô Quyền đem quân ra Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn và nhanh chóng tổ chức kháng chiến chống quân Nam Hán ở sông Bạch Đằng. Lợi dụng chế độ thủy văn khắc nghiệt của sông Bạch Đằng, ông sai đóng cọc dưới lòng sông, đầu bịt sắt nhọn sao cho khi nước triều lên thì bãi cọc bị che lấp. Ngô Quyền dự định nhử quân Nam Hán vào khu vực này khi thủy triều lên và đợi nước triều rút xuống cho thuyền quân Nam Hán mắc cạn mới giao chiến.
Kết quả, quân Nam Hán thua chạy, thái tử Hoằng Tháo bỏ mạng cùng với quá nửa quân sĩ, nhà Nam Hán phải từ bỏ giấc mộng xâm lấn. Với mưu lược thần tình của mình, Ngô Quyền đã làm nên chiến thắng Bạch Đằng nổi tiếng năm 938, kết thúc hơn một thiên ky Bắc thuộc, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ cho Việt Nam….
Về trận Bạch Đằng, Ngô Thì Sĩ đánh giá :
“
Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng chiến công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà thôi đâu…
[2] Trận Vạn Kiếp [wikipedia.] Từ ngày 11 tháng 2 năm 1285 đến ngày 14 tháng 2 năm 1285 tại Vạn Kiếp, 20 vạn quân Trần với hơn 1000 chiến thuyền đã chống trả quyết liệt cuộc tiến công của 30 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan chỉ huy. Để bảo toàn lực lượng, quân Trần rút khỏi Vạn Kiếp. Tháng 5 năm 1285, quân dân nhà Trần bắt đầu phản công.
Cuối tháng 5, sau thảm bại tại Tây Kết và Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên ngày nay), quân Nguyên tìm cách rút quân về nước. Đầu tháng 6, trên đường rút chạy qua sông Như Nguyệt bị cánh quân của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản chặn đánh. Cánh quân của Thoát Hoan và Lý Hằng chạy theo đường Vạn Kiếp bị quân phục kích nhà Trần bố trí từ trước xông ra phản công. Quân Nguyên chết đuối rất nhiều. Lý Hằng tử trận. Thoát Hoan được một viên tì tướng "giấu trong ống đồng" chạy thoát về Trung Quốc theo hướng Lạng Sơn. Cùng với các trận chiến khác, trận Vạn Kiếp đã góp phần quan trọng quét sạch 50 vạn quân xâm lược ra khỏi bờ cõi Đại Việt.
[Vạn Kiếp nay thuộc vùng Vạn Yên, xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương có đền Kiếp Bạc thờ Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn...
35
Bình yên ruộng lúa với nương dâu,
Phố xá bừng lên ánh nhiệm màu
Bến Nghé thiếp sang ngày hội ngộ
Hà tiên chàng lại buổi hoàn châu.
36
Hoa xưa hẹn lối ngày phong nhụy,
Trăng cũ thề đưa nối nhịp cầu.
Cách trở khôn ngăn dòng lá thắm.
Tình chàng ý thiếp gởi muôn câu…
37
Muôn câu ý đẹp tình thêm đẹp,
Rượu tiễn chàng đi bước hải hồ.[5]
Vạn dặm gươm hồng tung vó ngựa,
Ngàn năm khuê các dậy lầu thơ...[6]
38
Ta vây Khương thượng,giặc tan vỡ,
Địch đến Nhị hà, nươc nghẽn bờ.[7]
Thây giặc chất cao thành gò Đống,[8]
Thanh triều nửa tĩnh nửa như mơ...[9]
Chú thích:
[5] Cuối năm 1788, Càn Long sai Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị chỉ huy 29 vạn quân Thanh hộ tống Lê Chiêu Thống về Đại Việt với danh nghĩa “phù Lê”, vào chiếm đóng Thăng Long.Quân Tây Sơn do Đại tư mã Ngô Văn Sở, theo mưu kế … , chủ động rút quân về đóng ở Tam Điệp - cố thủ chờ lệnh. Nghe tin báo, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân , Nguyễn Huệ thống lãnh đại quân tiến ra Bắc. Ngọc Hân công chúa tức Hữu cung hoàng hậu tiễn đưa [ …Rượu tiển chàng đi bước hải hồ , Vạn dặm kiếm hồng tung vó ngựa …]
[6]. Ngọc Hân Công chúa là một cô gái thông minh, một nữ sĩ tài hoa ,hương sắc vẹn toàn .Từ nhỏ đă được học thông kinh sử và giỏi thơ văn .Bà đã nỗi tiếng trong làng thơ nôm với bài “Ai tư vãn” gồm 164 câu,theo thể song thất lục bát ca tụng chiến công vua Quang Trung Nguyễ n Huệ [ Ngàn năm khuê cát dậy lầu thơ…]
[7,8] Đêm 30 tháng Chạp âm lịch Quang Trung đánh diệt các đồn Nguyệt Quyết, Nhật Tảo, dụ hàng được đồn Hà Hồi. Đêm mồng 4 Tết, Quang Trung tiến đến trước đồn lớn nhất của quân Thanh là Ngọc Hồi nhưng dừng lại chưa đánh khiến quân Thanh lo sợ, phần bị động không dám đánh trước nhưng cũng không biết bị đánh lúc nào. Trong khi đó cánh quân của đô đốc Long bất ngờ tập kích đồn Khương Thượng khiến quân Thanh không kịp trở tay, hàng vạn quân lính bỏ mạng. [Ta vây Khương Thượng giặc tan vỡ …] Chủ tướng Sầm Nghi Đống tự vẫn. Xác quân Thanh chết sau xếp thành 13 gò đống lớn,có đa mọc um tùm nên gọi là gò Đống Đa. [Thây giặc chất cao thành Gò Đống…]
Sáng mồng 5, Quang Trung mới cùng đô đốc Bảo tấn công vào đồn Ngọc Hồi. Trước sức tấn công mãnh liệt của Tây Sơn, quân Thanh bị động thua chết hàng vạn, phần lớn các tướng bị giết.Trong khi Quang Trung chưa đánh Ngọc Hồi thì Tôn Sĩ Nghị nghe tin đô đốc Long đánh vào Thăng Long, cuống cuồng sợ hãi đã bỏ chạy trước. Đến sông Nhị Hà, sợ quân Tây sơn đuổi theo, Tôn Sĩ Nghị hạ lệnh cắt cầu khiến quân Thanh rơi xuống sông chết rất nhiều làm dòng sông bị nghẽn dòng chảy. [Địch đến Nhị hà nước nghẽn bờ ]… Trên đường tháo chạy, Tôn Sĩ Nghị bị hai cánh quân Tây Sơn của đô đốc Tuyết và đô đốc Lộc chặn đánh, tơi tả chạy thoát sang bên kia biên giới. Quân Tây Sơn đuổi theo và rao lên rằng sẽ đuổi qua biên giới cho đến khi bắt được Tôn Sĩ Nghị và Chiêu Thống mới thôi. Bởi thế dân Tàu ở biên giới dắt nhau bỏ chạy làm cho suốt năm sáu chục dặm đường không có bóng người và trâu bò súc vật…
Như vậy, sớm hơn dự kiến, chỉ trong vòng 6 ngày với kế hoạch tốc chiến tốc thắng ,với thiên tài mưu lược về quân sự của Nguyễn Hụê , quân Tây Sơn với quân số 10 vạn [phần lớn là dân quân chưa được tập luyện] đã đánh tan 29 vạn quân Thanh , lập nên một kỳ công hiển hách nhất trong lịch sữ nước ta và cả thế giới...Trưa mồng 5 Tết xuân Kỹ Dậu, Quang Trung với chiến bào đầy khói đen ,trên mình voi nhuộm đầy khói súng tiến vào thành Thăng Long trong sự vui mừng hã hê chào đón của toàn dân. … [Sau này khi nhớ lại lời hứa hẹn 10 năm sau vua Quang Trung sẽ lấy lại 2 tỉnh Quảng đông và Quảng tây mà Tàu đã chiếm của nước Nam ta trước kia không phải là lời nói quá nếu nhà vua không mất sớm…]!!!
[9]Tin bại trận đưa về, Càn long mắt nhắm mắt mở, nửa tĩnh nửa mê…Thôi rồi giấc mộng đế quốc bành trướng của triều Thanh tan tành thành mây khói…[Thanh triều nửa tĩnh nửa như mơ…]
[ thơ Dương Lam ]
39
Như mơ ngày Tết xuân năm ấy,
Nguyễn Huệ oai hùng giữa núi sông.
Áo trận thơm nồng xuân Kỷ Dậu,
Giáp bào rạng rỡ đất Thăng Long.
40
Trời Nam Lừng Lẫy Trang Hào Kiệt,
Sử Việt Vang Danh Giống Lạc Hồng.
Thắp nén hương lòng dâng Tổ Quốc,
KHÓI TRẦM LỘNG GIÓ QUYỆN TRỜI ĐÔNG...
41
Trời đông một sáng tưng bừng dậy ,
Dân Việt hò reo giữa biển khơi.
Hải đảo đất liền hoa thắm nở,
Rừng xanh núi thẳm lá xinh tươi.
42
Cha xây bờ cõi nghìn hoa gấm,
Mẹ viết muôn trang sử tuyệt vời.
Em hẹn anh về cùng hội ngộ,
Bên dòng sông Cửu nước xanh tươi.
43
Xanh tươi dòng nước Cửu long giang,
Tưới cánh đồng quê trĩu lúa vàng,
Cô gái bên sông hò ới lã !!!
Anh mau về kịp chuyến đò sang .
44
Lòng em như chiếc thuyền nan nhỏ,
Lèo lái đưa anh suốt dặm ngàn!
Thuyền nhỏ nhưng tình em không nhỏ,
Anh về mau kịp chuyến đò ngang.
45
Đò ngang đò dọc người chen chúc ,
Tình Bắc Trung Nam- nghĩa đá vàng.
Sương sớm nắng che hồ Ba Bể,
Mưa chiều mây phủ Ngũ hành san.
46
Ai qua Bản Giốc lòng rưng lệ,
Người đến Nam quan hận bẻ bàng.
Kiếp Bạc trăng soi hồn vạn cổ, [1 ]
Hồ Tây mây phủ mấy lần sương.
Chú thích:
[1] [Đền thờ Đức Trần Hưng Đạo]
47
Sương phơi nắng trải lòng mong mõi,
Chờ đợi em về thơ nở hoa ?
Bên giọng hò lơ tình bãng lãng,
Điệu đàn khoan lã ý bay xa ...
48
Yêu kiều thục nữ bên sương sớm,
Yểu điệu thuyền quyên giữa nắng tà.
Con bướm vàng bên hiên thỏ thẻ,
Như tình em gái thuở mười ba.
49
Mười ba thuở ấy lòng e thẹn ,
Như gió như mây chẳng hẹn hò.
Như nước sông Hương dòng bẽn lẽn,
Gởi tình Vỹ Dạ nón bài thơ .
50
Trường Tiền nắng đổ mười hai nhịp,
Thiên Mụ chuông sầu vạn cổ xưa .
Hẹn gặp lại em ngày qua Huế,
Về đò An cựu tắm chiều mưa…
51
Chiều mưa nghe gió Hoàng sa lạnh,
Tráng sĩ dừng cương lạnh buốt lòng.
Kiếm gỏ sao khuya chờ biển tạnh,
Gươm mài núi khuyết đợi trăng trong.
52
Vua Hùng dựng nước- ngàn năm trước,
Dân Việt cùng xây- một chữ đồng,
Hẹn quyết ngày mai thề lấy lại,
Tấc vàng tất đất của cha ông
53
Cha ông yêu quí từng cây cỏ,
Từng cánh cò bay bạt trắng ngàn.
Tiếng sáo dập dìu trong khoảng vắng,
Giọng hò êm ả giữa chiều sương.
54
Đàn trâu thong thả về ngang xóm.
Lũ trẻ hò reo trở lại làng .
Bà lão đêm đêm cầu Trời Phật ,
Muôn nhà vạn sự được an khang…
55
[Thay Đoạn Kết]
KHANG AN MỘT CÕI TRỜI HOA
CON RỒNG CHÁU LẠC NHÀ NHÀ ĐẸP VUI
Nằm đêm góp nhặt đôi lời
Chúc Em Hạnh phúc chúc Đời Tự Do...
Dương Lam[vophubong]
Bài này đã được xem 7756 lần
|
Người đăng:
|
vophubong
|
|
|