Poem logo
Poem logo

hịch cứu nước

Tác giả: Bảo Giang
Đầu làng trống,
cuối thôn chiêng,
Cây cỏ nước Nam như nghìn mũi giáo.
Muôn vạn binh
trăm ngàn mã,
Vọng tiếng loa cho Tống, Hán bay hồn.
Vầng nguyệt tỏ,
Ánh dương soi,
Sánh cùng nước Việt muôn đời hùng vỹ.

Nay,
Dòng sử Tiên Long bỗng gặp cơn nguy biến,
Vận nước nhà lâm nạn cộng phỉ hại dân.
Người trong nước đã muôn phần lao khổ,
Lại canh cánh bên lòng cái họa ngoại xâm.
Thế cho nên,
Chiêng hồi trống thúc.
Nào hỡi Tiên Long
Như ngàn cơn sóng
Cuốn với đại dương
Đọ gan trời đất:
Chị ngã xuống, em đứng lên,
Dẹp cho tan lũ cộng Hồ buôn dân bán nước.
Mẹ phất cờ, Con ra trận,
Quét cho sạch bọn bành trướng ra khỏi biên cương.
Người trong nước, Kẻ ngoài biên,
Quyết đưa biển cả núi sông về một mối an bình thái lạc.

Bởi gương xưa:
Tiền nhân ta, một thước kiếm xây nền đế nghiệp.
Dựng xã tắc, lấy Nhân Nghĩa yên định muôn dân.
Cuộc mở nước như ngọn thuỷ triều trong trời đất,
Dẫu hưng vong, vẫn lẫy lừng giữa chốn trời đông!
Năm Qúy Mão (43) đuổi Tô Định,
Sử nhà Nam ghi tạc công đức Nhị Trưng.
Dáng anh hùng, thân nhi nữ,
Bờ sông Hát nghìn thu còn nghi ngút khói hương.
Đất Thái Bình, (544) sinh Nam Đế,
Dòng sử Việt thêm một lần vạn thế lưu danh.
Cờ Thiên Đức, lầu Vạn Thọ,
Mở hội anh hùng Việt quốc Vạn Xuân.
Vạn Xuân, vạn Vạn Xuân,
Lúc khua chiêng, khi đánh trống,
Trăm vạn mã, ngàn chiến thuyền,
Ngô Vương giữa Bạch Đằng (938) như ngàn cơn sóng bạc.
Tiếng quân Nam, trong gío bão.
Thế vươn cao trên đỉnh thác trảm Hoàng Thao.
Bàn chân Việt, bước thênh thang.
Năm lần phá tan quân nghịch tặc cướp nước.
Bến Chương Dương,
thành Vạn Kiếp,
Cửa Hàm Tử sóng hồng đỏ lấp non sông.
Diệt Tống, Hán,
triệt Thanh, Nguyên,
Xoay cơ trời, định bờ cõi, xây nền Độc Lập.
Ngựa Toa Đô, thuyền Ô Mã
Mộng bành trướng khó thoát nạn sinh bắc tử nam.
Dòng nước xanh, vẫn miệt chảy.
Lớp sóng còn ghi nỗi nhục Lưu Cung,
Mà trang sử Việt thì muôn năm trường cửu.

Sang Giáp Thân (1284), Hội Diên Hồng,
Nghìn thu lưu dấu Hưng Đạo Vương vì nước.
Công dọc đất, nghiệp ngang trời,
Làm cho khắp nơi sáng tỏ uy linh thần vũ,
Vây Đông Quan, hãm Chi Lăng,
Chỉ một trận mà Liễu Thăng thân vùi vó ngựa.
Bắt Thôi Tụ, tha Vương Thông,
Kiếm Thuận Thiên bạt ngang trời, Lam Sơn vì nghĩa.
Sang Đinh Mùi (1427) vạch biên cương,
Đất chung một dải, thiên thư định phận: Mỗi nhà một cõi.
Nước chảy cùng dòng, cao xanh đã tạo: Nguồn cội khác nhau.
Đến Kỷ Dậu (1789) mở trang sử mới,
Bắc Bình Vương ra tới Thăng Long,
Vào Ngọc Hồi, Sầm Nghi thắt cổ.
Sang Đống Đa, xác Hán từng gò.
Tiếng quân reo long trời lở đất,
Tung vó ngựa, trúc chẻ ngói tan,
Tôn sỹ Nghị bỏ chạy mà Càn Long vỡ mật!
Đất nhà Nam tựa thiên thu đại định…

Nhưng than ôi, thế cuộc chuyển dời,
Tổ quốc chưa vui hết ngày hội, mà nơi phương Nam lệ đổ tiễn Quân Vương!
Gặp cơn nước đục Nguyễn thời đi cầu binh ngoại để gieo cái hoạ cho nước.
Đầu làng, cuối xóm chó sủa thâu đêm, dân tình không có được giấc ngủ yên.
Trong nhà con thơ khát sữa, ngoài phố phu thợ, lao công thời ho ra máu.
Ghê gớm thay, cuồng bạo thay,
Cái ách phong kiến, giặc ngoại xâm!
May thay, giữa trùng trùng tai trời ách nước,
Hịch Hàm Nghi lại vang vọng bốn phương.
Vì Tổ Quốc, người yêu nước lại đứng lên vì nước.

Sau trăm năm, mạch sống xoay vần,
Cơ trời thăng hoa, đất thời chuyển động,
Non sông vừa thoát ngoại xâm, Việt Minh đã dựng cờ hồng.
Gặp năm đói (1945) chuột đồng về phố,
Cửa nhà hoang, máu đổ khắp thành.
Sáng đấu tố, chiều đấu tố, đấu cho hết những người vì tổ quốc,
“Đào tận gốc, trốc tận rễ”, quyét cho sạch đạo lý luân thường!
Nơi tôn nghiêm, Cộng kéo về là đá không còn chồng trên đá,
Phá chùa xưa, đập giáo đường, miếu thần hoàng gạch nát từng viên.
Cảnh đồng hoang, hồ khô cạn, xác chết chương lên giữa phố bốc mùi ô uế.
Bầy chuột đói, chạy vòng quanh, bày đàn hương án, chia phiên bán nước cầu vinh.
Ôi chiều đại nạn, đất thời lặng tiếng,
Trời ngủ yên, ai biết đâu mà réo gọi.
Trong đêm tối, đưòng mã tấu, như ánh sao, Người ngã xuống cho máu loang khắp mọi chốn.
Lúc nắng lên, đôi dép râu, vào từng nhà, ra tận mộ, réo từng tên mà tra khảo của.
Người chết không nấm mồ, Kẻ sống mất cơ nghiệp.
Tám mươi năm, máu loang đồng, xương cốt khô chất cao bằng núi,
Xác trôi sông, theo dòng chảy, ấy công ngiệp vĩ đại Hồ tinh
Gớm ghiếc thay, lòng ác độc, lưỡi vô thường của loài lang sói cộng nô.
Kinh hãi thay cảnh giết người, dẫu phong kiến, ngoại xâm xưa nay chưa thấy:

Thằng bé mới lên năm,
mặt xanh như tàu lá,
ngã chúi đầu trên sân,
mồm ấp a ấp úng,
Ông ơi, Hồ…. Hồ chí Minh giết người.
Đứa trẻ năm xưa,
nay đầu đã bạc,
tên người tưởng ma,
đổ gục xuống đất,
đôi mắt trừng trừng,
máu trào ra miệng. Lại cũng là… nó
Cắc… cắc, tùng … tùng … cheng:
Việt Minh lập hội, tiêu Công Lý,
Cộng Sản kết bè, triệt Tự Do.

Hỡi ơi, cơn đau như xé ruột,
Tiếng thét uất nghẹn chẳng ra hơi
Mảnh đất nào cho dân ta ở,
Nước sông nào cho dân ta uống,
Gạo thóc nào cho dân ta ăn,
Sữa mẹ nào cho con bú mớm?
Tám mươi năm giặc cộng kéo về,
Bấy nhiêu năm đau thương chẳng cạn.
Ôi! ngày đại nạn, sao người ngủ yên?
Nào hỡi Tiên Long,
Hãy một lần nhìn lại giang sơn cẩm tú.
Bắc Hồng Hà, nam Cửu Long, nối liền thân một gánh Hoàng Liên.
Từ Nam Quan, đến Cà Mâu, lưng tựa Trường Sơn chung sức tràn ra biển lớn.
Là cơ đồ, là sản nghiệp, là hơi thở, là máu xương của tiền nhân để lại cho lũ cháu đàn con.
Nay tủi hận chưa?
Một giải giang sơn không còn nơi nào thiếu dấu chân quan cán thời Tống – Hán!
Đủ đau xót chưa?
Nam Quan, Bản Giốc, Hoàng – Trường Sa… là đất mẹ, bỗng đổi tên ra xứ người!
Ôi quốc phá gia vong.
Nước mắt lau chẳng ráo!

Hỡi toàn dân Việt,
Tổ Quốc lâm nguy.
Ai người vì nước,
Đứng dậy mà đi…
Người đi, chí toan bắt voi rừng, hổ báo,
Có lẽ nào lo ngại chồn cáo mèo hoang?
Kẻ xuống biển tìm diệt kình ngư, hà bá,
Có khi nào lại sợ cóc nhái dưới chân?
Nào Ta đi cho Việt Linh ngời sáng,
Này Ta về cho hồn nuớc trào dâng.
Đất của Mẹ, một ngọn cỏ ta thề không bỏ,
Núi nước Nam, một viên đá ta quyết chẳng rời.
Chị ngã xuống, em đứng dậy,
Diệt cho hết phường bán nước hại dân,
Mẹ phất cờ, con ra trận,
Quét cho sạch bọn bành trướng bắc phương.
Người trong nước, kẻ ngoài biên,
Dựng cho cao ngọn cờ Độc Lập.
Hát cho đều tiếng hát Tự Do.
Cho ngàn ngàn sau, dòng sử Việt còn lưu danh cùng trời đất.
Để vạn vạn thế, người nước Nam cùng bốn bể an lạc, hòa minh.

Cẩn,
Bảo Giang

Ý kiến bạn đọc

TÌM KIẾM BÀI THƠ
Nhập từ khóa:
Tìm kiếm