lệ chi hận sử (10)
Âm mưu thâm độc
Trời vừa hé ánh quang mờ chiếu
Soi dịu dàng ngọn liểu cành dương
Lập lòe muôn hạt kim cương
Điểm tô phong cảnh ngàn sương gợi hồn
Giữa yên tỉnh sóng cồn nổi dậy
Cung nhân buồn không thấy Ngọc Dao
Tưởng như biển động ba đào
(920) Lắc lư thuyền nhỏ tạt vào đảo hoang
Chưa thức tỉnh, hoạn quan bẩm cáo
Cánh chim non đã tháo sổ lồng
Từ nay vượt khỏi trời đông
Tìm đâu cho thấy cánh hồng bay xa
Thị Anh tức, hét la cay đắng
Ra lệnh tìm cho đặng Ngọc Dao
Một thân đơn độc tại đào
Nghĩ ra chắc có kẻ nào nhúng tay
Còn ai nữa Ức Trai ghê gớm
Một con người can đảm có thừa
Được lòng tin cậy đức vua
Lại thêm Thị Lộ chẳng vừa gì đâu
Trong với ngoài vừa khâu vừa khít
Họ cùng nhau chằng chịt giăng ta
Cũng may Nguyễn Trãi cáo già
Buồn lòng quay trở lại nhà Côn Sơn
Ta phải tính thiệt hơn cặn kẻ
Phải làm sao chia rẻ hai người
Phải cho Nguyễn Trãi hận đời
(940) Rằng người yêu trẻ không rời đức vua
Vua đã thích đã ưa Thị Lộ
Đã dẫn nàng đến chổ mê cung
Từng đêm ngụp lặn vẫy vùng
Đã quên hết chuyện tôi trung vợ hiền
Tiếng đồn tránh không truyền đến chúa
Cố làm sao vây bủa Ức Trai
Để làm nhủng chí anh tài
Để gây xa cách chia hai nẻo đường
Nơi quê ngoại Côn Sơn lặng lẽ
Sống êm đềm trước vẻ thiên nhiên
Ngâm thơ thưởng nguyệt bên hiên
Viết văn đọc sách gởi niềm riêng tư
Một buổi sáng mùa thu lạnh lẽo
Nghe tiếng đồn từ nẻo kinh thành
Người thân tín của Tạ Thanh
Đã đem tin đến truyền nhanh khắp vùng
Nguyễn Trãi trước nhìn chung thời thế
Xét suy nhiều cội rể nguồn tin
Nếu theo quan điểm của mình
(960) Theo lòng trung hậu tính tình người yêu
Thì chuyện ấy đặt điều nói dối
Không thể nào phạm lỗi gia cang
Ác thay những tiếng đồn vang
Lay niềm tin tưởng, khơi ngàn khổ đau
Cảm thấy tiếc mái đầu tóc bạc
Tuổi thanh xuân đã lạc mất rồi
Niềm yêu, sức lực một thời
Chỉ còn giữ lại những lời tiễn đưa
Nhiều lúc muốn đội mưa lướt gió
Trở về kinh cho rõ ngọn ngành
Hỏi người tóc vẫn còn xanh
Có còn nhớ mảnh chiếu lành Triều Đông (54)
Nhưng không dám vì không được lệnh
Của đức vua triệu thỉnh về cung
Đành mang tâm sự lạnh lùng
Tỏ cùng sương sớm, bày cùng trăng khuya
Không chịu nỗi tình chia hai nẻo
Viết vài hàng nhắc khéo người yêu
Những khi nắng sớm mưa chiều
(980) Đôi vần thi họa chiếm nhiều tâm tư
Thuyền khuất bóng sương mù Đông Hãi (55)
Cánh chim trời sau giãi Nam Sơn
Cách chia vì bởi sóng cồn
Nhưng tình khắng khít keo sơn suốt đời
Dầu hiểu vậy một lời cũng hỏi
Sáng trưa chiều có đợi có trông
Có còn trở lại dòng sông
Để cùng ngắm ánh nắng hồng hoàng hôn
Lời thề nguyện Nam Sơn tồn tại
Câu hẹn hò Đông Hãi còn ghi
Lòng anh bất dịch bất di
Chắc nàng cũng chẳng có gì đổi thay ?
Nhận được thư vừa cay vừa thỏa
Cay vì chồng chẳng rỏ đục trong
Chưa chi bỏ lục thêm hồng
Đắng cay rồi lại tỏ lòng nghi nan
Vui vì biết tình chàng chẳng đổi
Vẫn yêu thương giận dỗi vì ghen
Xa nhau vì bởi ngọn đèn
(1000) Chớ đâu do bởi chuyện đen trắng lòng
Vội lấy bút viết dòng tâm sự
Để trả lời từng chữ từng câu
Những điều ý hợp tâm đầu
Những trang liệt nữ ghi sâu suốt đời
Vầng trăng khuyết, tình tôi không khuyết (56)
Sông dù vơi, ý thiếp không vơi
Hỏi ai đi suốt cuộc đời
Sao không thấu hiểu tình người chung chăn ?
Thế mới biết băn khoăn suy nghĩ
Là những khi định trí chưa xong
Cớ sao lòng chẳng hỏi lòng
Tình yêu chưa hẳn như dòng thời gian
Chàng đã đáp tình chan chứa mộng
Như bến yêu trải rộng sông dài
Lạ gì những chuyện ngoài tai
Vợ chàng chỉ nghĩ đến ngày đoàn viên
Nguyễn Gia Linh
(54) Đông Triều
(55) Trong bức thư của Nguyễn Trãi gởi cho Thị Lộ viết bằng Hán văn, trong quyển Tích Kháng đường phổ ký của chi họ Nguyễn Nhữ Soạn, anh em cùng cha khác mẹ của Nguyễn Trãi, do Vân Trình dịch, có những câu như sau :
Lời thề khắc Nam Sơn, sừng sững Nam Sơn còn đó
Lời nguyền ghi Đông Hãi, bao la Đông Hãi còn đây
Lòng ta đã không sờn
Chí nàng chắc không đổi
và
Trời cao đất thấp, bốn mùa thành,
Đáng trách ai kia đạo chẳng minh
Mặt kính tuy trong bụi đã nhiểm
Lòng nhân vừa nhóm, dục còn ganh
Đời Chu bắt chước lòng trung hậu
Thuở Hán nên theo nghĩa trọn tình
May gặp trời, người cung giúp rập
Kìa xem xã tắc lại xuân sinh
(56) Bức thư trả lời của Nguyễn Thị Lộ cho Nguyễn Trãi viết bằng Hán văn, cũng do Vân Trình dịch, gồm những câu chánh sau đây :
Mói tình muộn màng nào quên,, núi tuy khuyết mà lòng thiếp không khuyết
Lời thề đinh ninh khó nhạt, sông dù vơi mà ý thiếp không vơi
Còn gì liệu đáng băn khoăn
Phải chăng tự mình chuốc lấy....
và
Lòng son khẩn khoản việc mau thành
Ai bảo cương thường đạo chẳng minh !
Ngày nắng lo chi mây chút gợn
Cây cao há phụ sắn bìm tranh
Anh hùng gắng sức anh hùng chí
Phận gái đào tơ, phận gái tình
Phúc đượm duyên trời cầm sắt hợp
Nguyện sinh con cháu thánh hiền sinh...