Poem logo
Poem logo

đồi mai vùi kiếm (4)

Tác giả: Bùi Thanh Kiên
HỒI THỨ TƯ

Hợp bạn Lứa, Tòng Quân Bình Nam Ngạn
Thất Nghiệp Thành, Bãi Chiến Thủ Lạc Dương


4A- TIỄN ĐƯA

Trà thơm môi, ngắm bông đào
Mưa phùn se lạnh, chớm vào tiết Xuân
Cành đơm nụ búp ngại ngần
Đồi pha nắng dịu, ngọn tần sũng sương
Châu rằng: “Dốc thẳm hí trường
Máu pha kỷ niệm bước đường rũi may
Cánh hồng chí gởi ngàn mây
Nằm co hốc đá mơ xây non đồng
Bắt hùm vật lộn giao long
Thiên San bóp nát, biển Đông lắp bằng
Tháng Giêng đúng hẹn tròn trăng
Đau lòng giã biệt đất Sằn tòng quân”.
Huỳnh rằng: “Cá vượt mấy từng
Hóa rồng vùng vẫy nửa lừng trời cao
Hút luồng khí mạnh trăng sao
Quày gươm chém sấu, giương lao phóng kình
Lúa vàng sẽ rợp đồng xanh
Kiến ong tan ổ, công thành buông cung
Chẳng còn rẽ núi ngăn sông
Đem về một mối chung cùng xa thư
Muôn nhà vui nghiệp an cư
Sống theo đạo nghĩa, hiếu từ khoan dung”.
Vàng sương lụa mỏng mông lung
Đèn hiu hắt bóng, nghiêng song nguyệt tà
Te te gà thúc canh ba
Hành trang dồn đãy, rời nhà bước đi
Mũi lòng thay phút chia ly
Ai cầm được lệ phân kỳ ướt bâu
Châu rằng: “Vực dẫu mấy sâu
Cũng chưa sánh kịp tiễn nhau tình nầy
Gió mừng mây đón hạc bay
Đoái nhìn cội cũ lòng nầy sao quên”.
Huỳnh rằng : “Đường xá chông chinh
Cheo leo hố thẳm, gập gình đá cao
Vân Anh dầu phận má đào
Hang cùng ngỏ hẹp ra vào hằng quen
Đưa người tắt nẻo Trang Xuyên
Lòn truông Phật Tánh, vô miền Nho Lâm
Non Càn giáp với Chơn Tâm
Hướng phương Nhơn Ải hơn năm dặm dài
Giữa trưa trở gót về ngay
Tối tăm rừng bụi, dạ đây đeo phiền”.
Gió xao cành lá bóng xiên
Buồn vương vấn tóc, truân chuyên phận bèo
Thoảng hơi gió động leo heo
Tay che nắng lóa, mắt nheo giọt sầu





4B- VÂN ANH NHỚ CHÂU THÔNG

Đứt dây héo bí úa bầu
Đôi bờ xa lắc, nhịp cầu bơ vơ
Người đi biết đến bao giờ
Để riêng ai luống mong chờ một ai
Nhớ khi mưa vạy gió may
Trà lan ấm khói hiên ngoài lạnh căm
Xót chiều ly biệt ruột bầm
Lệ rơi mềm đá chảy ngầm lòng đau
Trái ngang đôi lứa duyên đầu
Đố ai đếm được giọt ngâu qua mành
Ai làm lá phải xa cành
Cho thuyền xa bến, cho mình xa ta
Tưởng người chiến trận xông pha
Gối tay mơ bóng trăng tà quê hương
Tưởng người bãi ngập cây hoang
Mắt sâu mất ngủ đợi đàn tanh hôi
Ngựa buồn mất chủ bồi hồi
Nắm xương lấp vội bên đồi quạnh hiu
Nguyện làm miếng ván điếu kiều
Quân qua rầm rập đạp xiêu lũy thành
Nguyện làm bóng thỏ năm canh
Theo người đầu núi cuối gành quản đâu
Bao giờ chôn kiếm bỏ đao
Bỏ công danh, giũ chiến bào về quê
Nghĩa sâu tấm mẳn vẹn thề
Bờ tre mái cỏ đi về có nhau
Má xưa còn thắm hoa đào
Duyên xưa vẫn giữ một màu trung trinh
Một duyên hai nợ ba tình
Quẩn quanh mộng mị bóng hình còn lưa.





4C- BA NGƯỜI TÒNG QUÂN - GẶP QUÁCH TỬ NGHI

Dãi dầu rày gió mai mưa
Băng đêm lạnh, ngủ rừng trưa bao ngày
Quần ôm áo túm ăn mày
Mồ hôi xót mắt, canh dài mõn hơi
Đại dinh giáo dựng sáng ngời
Cờ giăng trống giục chiêng hồi inh tai
Lũy thành quân mấy vành đai
Nghiêm trang hàng ngũ trong ngoài vọng canh
Cửa viên đồng gởi thiếp danh
Nán chờ sĩ tốt thượng trình Ngươn Nhung
Thấy tên quá đỗi mừng lòng
Tử Nghi mời khách anh hùng vào trong
“Hùm gầm khơi nổi gió giông
Ngàn sao hợp mặt lo chung trị bình
Giương cờ nghĩa, dẫn đại binh
Ngũ Lăng đạp đổ, Yên Kinh san bằng
Hang chồn, ngách sói lăng nhăng
Phá tan vách sắt, đẩy phăng tường đồng
Trường An tứ phủ bụi hồng
Sa cơ bước sẩy chơn cùng về đâu”.
Kể nghe cặn kẽ đuôi đầu
Nổi chìm bao độ, lụy sầu bấy thân
Dạy rằng: “Máy Tạo xoay dần
Dở hay thành bại định phần thiên công
Kiếm cung phỉ chí tang bồng
Mày râu nợ nước trả xong mới mầu”.
Giờ lành ngày tốt tháng sau
Lửa lan Nam ngạn, dìm sâu đế thành
Phụng Tường khai pháo tấn binh
Trường Giang sóng bũa, nghê kình vi giương.
Châu Thông lảnh trấn Đức Lương
Ngoài ngàn mã kỵ chận đường lui binh





4D- ĐÁNH TRƯỜNG AN

Mặt trời trốn lạnh bồi hồi
Núi non tiếp núi, cây đồi nối cây
Đóm lòe hun hút lưng mây
Gối tay ấp kiếm sương đầy giáp nhung
Nhớ người trăng ấm bóng tùng
Mày thanh nét liễu, môi hồng diệu thơ
Ai ơi! Có biết bao giờ
Biết ai chắc dạ đợi chờ ai chăng
Cội xuân chiều ngã sầu giăng
Lạnh hương vắng khói đã hằng lâu nay
Quê nghèo khô xộp mai gầy
Cỏ huyên một nắm biết rày gió mưa
Mong ngày trở lại làng xưa
Chén cơm lưng nước phụng thờ từ thân
Đồi hoang cải táng mộ phần
Nắm xương đất khách được gần tổ tiên
Trăng già khéo đẩy đưa duyên
Tóc xanh mong kết phỉ nguyền tơ loan
Một đêm thiêm thiếp mơ màng
Huỳnh Hà bão động,Vũ Quan lửa lồng
Tử Nghi ra lịnh giáp công
Lạc Dương nhắm hướng, nỏ cung đánh tràn
Thiểm thành trúc chẻ ngói tan
Hoằng Môn, Hàm Cốc đen tàn tro bay
Dẹp xong, ngựa trở gươm quay
Huê Dung mác nhọn thương dài dồn quân
Hành cung đặt tại Thừa Ân
Phục binh bảo giá ngóng lần âm hao
Ngươn Hanh chỉ ngọn sóng trào
Lũy đồn chọc thủng ập vào Liêm Khê
Vượt truông Diệu Đế, Thanh Nê
Gọng kềm khép chặt tư bề Đồng Quan
Yên binh vỡ mật kinh hoàng
Gượng tay chống chỏi, tìm đàng nhủi chui
Nhỏ nhoi lũ muỗi bầy ruồi
Trâu bò sanh sự phải vùi xác oan.
Đường cùng bí ngách nghẹt hang
Dầu sôi máu hận lửa lan tình thù


Đeo đầy thang chấp dây đu
Mặt thành gổ đá vụt vù ném quăng
Thế cô khó nỗi đỡ ngăn
Cong đuôi bầy chuột ham ăn chạy dài
Rừng hoang xác rữa xanh cây
Kên kên quạ đói cả bầy liệng không
Đức Tâm dẫn đạo Hà Đông
Thuyền phao gọn nhẹ vượt dòng Đại Giang
Hỏa công đè ngọc cuồng lan
Đốt tiêu thủy đội bạt ngàn Bồ Lôi
Bại binh bẩm báo từng hồi
Tham quan bụng mỡ đứng ngồi không an
Phân vân tham sống tiếc vàng
Tính sao lợi cả đôi đàng mới hay
Nghiêm Trang cùng lũ tay sai
Hốt gom vàng bạc nhét giày lận lưng
Giả thường dân, đổi áo quần
Nửa đêm qua mắt quân tuần lẻn đi
Bịt tai tiếng bấc tiếng chì
Một phường mặt mốc kể gì danh nhơ
No mồi ở bẩn ăn dơ
Giờ không quyến thuộc cậy nhờ tấm thân
Nghĩ men đường tắt cho gần
Nào ngờ vận rủi dắt lần cõi âm
Gươm trường tay tuốt lăm lăm
Châu Thông xuống lịnh sanh cầm họ Nghiêm
Sẵn sang móc sắt câu liêm
Lôi lên khỏi hố trói kèm cùng nhau
Kíp truyền cạo tóc cắt râu
Tù xa đóng kín giải hầu thiên nhan
Bắt bầy con giặc tôi loan
Cộng đồng xữ án luận bàn tội căn
Tần Châu hạn hán mấy trăng
Làng quê không đủ hòm xăng chôn người
Chẳng còn chút gạo cầm hơi
Tan hoang mái ấm, rã rời thây thi
Chỉ ban chẩn tế tức thì
Mở kho lẫm lúa đem đi cứu bần
Ba năm miễn thuế muôn dân
Nhà nhà hồi phục lần lần nếp xưa





4E- ĐÁNH NGHIỆP THÀNH LẦN THỨ NHỨT

Nhọc nhằn chải gió xông mưa
Chỉ nhen đóm lửa mới vừa cháy lan
Bước đầu chiếm ngự Trường An
Dựng xây nền móng chỉnh trang trận đồ
Sông buồn thiếu vắng con đò
Cát say vó ngựa bụi mờ ải lang
Ngụy Châu trống trận còn vang
Sử An khơi máu chảy tràn phân tranh
Hôi tanh nhẫm dấu Nghiệp Thành
Khô cây héo cội nát cành úa hoa
Đau thương bỏ cửa lìa nhà
Trẻ thơ móc ruột, đàn bà phanh thây
Già nua ngựa xé voi giày
Dã man no mắt lũ bầy yêu tinh
Kết liên mười vạn Liêu binh
Đeo chơn mọi rợ, giựt giành vinh hoa
Hịch vang vọng mãi đầu loa
Thôn gần uốn nõ, làng xa hợp đoàn
Lòng son nguyện với gan vàng
Thái San phải định, Tràng Giang phải bình
Xe rồng cuốn bụi Nam chinh
Ngựa Kỳ sải vó điều binh kịp giờ
Quân đi sóng cuộn đôi bờ
Khí thiêng lở núi, giáo cờ rợp sông
Cẩm nang Trù bút đeo hông
Châu Thông lảnh ấn tiên phong lên đàng
Thư Dương tay vẫy bão tràn
Ầm ầm quân mã băng ngàn như going
Nghiệp Thành tướng giỏi binh đông
Hổ đầu Trương Chí bố phòng rất nghiêm
Quân triều len lỏi bóng đêm
Non Tây tắt ánh trăng liềm ra tay
Hèn lâu mới được một ngày
Cánh hồng thỏa nguyện ra tài kình nghê
Thủ Trung thấy chết cận kề
Cải trang thương khách trốn về Sài Tang
Im hơi ém tiếng quân dàn
Ngậm tăm cất lạc lặng trang giáo cờ
Lý Quang Bật đã hẹn giờ
Thâu Khai Phong phủ chực chờ mạn Đông
Đương cơn pháo đột tên xông
Hùm beo múa vút, thần long chuyển mình
Kề tai ra hiệu lui binh
Khơi dòng sông lũ nguồn trên đổ về
Mây đùn mưa nặng dầm dề
Nghiệp Thành ngập lụt như bè giạt trôi
Bơ vơ bốn phía đất trời
Thủy triều đương vượt lũng đồi nước dân


Xuồng con ghe nhẹ rần rần
Qua hào phá cửa liều thân công đồn
Trương Trung Chí dạ chẳng sờn
Chắc tay cung kiếm đột môn canh tuần
Súc lăn đá ném tưng bừng
Tường long vách rỉ sai quân tram liền
Mười ngày thành chẳng chuyển nghiêng
Uổng công tốn sức lương tiền hụt hao
Mấy phen bày trận đánh vào
Mấy phen rước lấy máu đào thây phơi
Sông dài nước vực sóng vơi
Vừng dương chói rạng, mây trời thênh thang
Mưu sâu kế hiểm luận bàn
Muối đem đổ biển nghĩ càng thêm đau
Chần chừ gì nữa lui mau
Náu mình truông thẳm non cao quanh vùng
Rắp tâm beo cọp tranh hung
Giành phần béo bở để dùng nay mai
Vòng vây bủa kín đêm ngày
Cắt đường tiếp cứu trong ngoài Yên binh
Sáng ngày hoa đậm hương trinh
Đoàn quân thám mã vào trình sự cơ
-Tư Minh thừa lúc trăng mờ
Xua quân thần tốc băng bờ Trường Giang
Thế công xô ngả Cửu Quan
Vó câu ngựa chiến giẫm tan Ô Đề
Say mồi no máu chán chê
Nghĩ đâu đất thãm trời thê sa tràng
Đọa đày nhau ngục trần gian
Hai bên bỏ mạng trăm ngàn có khi
Tướng Yên dùng rặc quân kỳ
Dò la tin tức rải đi khắp vùng
Canh khuya trống nện thì thùng
Lỏi len khuấy rối lục lung khắp nơi
Rạng ra thanh thản nghỉ ngơi
Ẩn thân rừng rậm êm hơi non ngàn
Binh triều đứng thở ngồi than
Ngóng chờ thấp thỏm tấc đàng rủi may
Khiếp kinh mộng dữ đêm dài
Quầng thâm đôi mắt, mặt mày trỏm lơ
Một tuần trăng lặng như tờ
Trá gian chước quỉ ai ngờ được đâu
Xót thân ching thú dãi dầu
Co ro đất lạnh trên đầu mưa rơi
Dẫu không quen, đã hứa lời
Quyết không để dưới mặt trời thấy nhau
Một đêm gió động ào ào
Voi gầm ngựa hí gươm đao bốn bề
Tử Nghi truyền rải tật lê
Chắn rào lừa gổ, xe kê chật đường
Liều mình túng thế cùng phương
Tranh quyền sống sót, vùi xương sá nào
Liên hườn mã rõ mưu cao
Gắn thương ngực ngựa, chỉa đao cạnh sườn
Bão going móng nện mặt đường
Xông pha như sói lọt vườn bỏ hoang
Kề hàm răng nhọn hổ lang
Bầy cừu bất ý tan đàn như chơi
Quân triều hàng ngủ rối bời
Lửa thiêu Xích Bích, thây phơi non Kỳ
Chì quăng đá ném trả đi
Lưỡi liềm móc sắt giải nguy thế cờ
Tranh,mồi béo, nước đục lờ
Rủi may kẽ tóc chân tơ sống còn
Ráng vàng hé ửng đầu non
Quân triều cứu viện bon bon chạy về
Lửa thêm dầu cháy càng mê
Dìm nhau trong giấc tái tê khinh hoàng
Cạnh sườn, Châu, Lý thốc ngang
Bị vây vào giữa, Sử toan lẽ nào?
Tử Nghi dung thế đà đao
Quày cương chém. trả rơi đầu Sử Na
Còn hai chống chọi với ba
Tư Minh liều dốc sức già hơn thua
Múa đao đâm đại chém. Đùa
Nhìn quanh cảm phận con cua gãy càng
Lý Quang Bật múa thanh cang
Trúng thương, Trung Chí tìm đàng ruổi giong
Quất roi, ngựa chiến lộn lồng
Tư Minh vọt thẳng thoát vòng quân vây
Châu Thông vụt phất bàn tay
Phi đao cắm ngập bả vai kẻ thù
Mật tan, Sử hoảng chạy vù
Dắt quân lếch thếch vào khu rừng già
Điểm quân, còn bảy hao ba
Cuộc cờ, thế bại tay sa thế nầy!
Châu rằng: “Trổ kiếm cõi ngoài,
Sợ chi da ngựa bọc thây biên đình”.
Quân hơn hai vạn bỏ mình
Người còn vía lạc hồn kinh tháng ngày
Xe lương địch đốt Giang Hoài
Cướp tươi mễ cốc mạn Tây chở về
Giả người làm mọi ngành nghề
Thay xiêm đổi áo gây bề khó khăn
Lừa khi mây phủ sương giăng
Mồi rơm đốt trại Đại Lăng, Thạch Hào
Gân gà, mưu lược họ Tào
Ba mươi sáu kế, chước nào thượng phong?
Lui về đất hiểm bố phòng,
Lạc Dương cố thủ yên lòng ba quân.

Ý kiến bạn đọc

TÌM KIẾM BÀI THƠ
Nhập từ khóa:
Tìm kiếm