Poem logo
Poem logo

đồi mai vùi kiếm (7)

Tác giả: Bùi Thanh Kiên
HỒI THỨ BẢY

Ngoài Châu Quận, Mừng Dân Lạc Nghiệp
Giữa Triều Đình, Treo Ấn Từ Quan

7A - TẾ CÁO TRỜI ĐẤT

Nấu gươm đúc cuốc trồng dâu
Vác cày dòng nghé dẫn trâu ra đồng
Nắng đào sương ấm trời trong
Reo vui tiếng sáo mục đồng lưng mây.
Dạy dân lễ nghĩa từ đây,
Hùm im, sấu bặt, nước xây thái bình.
Muôn hồng ngàn tía vườn quỳnh,
Sao Khuê rạng mặt, học hành mở mang,
Nhà vua đai ngọc bào vàng,
Phẩm dâng Thái Miếu, giao đàn tế thiên,
Cúng thần ngũ nhạc sơn xuyên,
Thảo bài đại cáo rao truyền khắp nơi.

7B - TẾ SĨ DÂN

Bấy lâu cung nõ chẳng rời,
Mái tranh bốc lửa, máu rơi đường làng
Sân chùa chiếu chỉ đã ban
Lính dân trăm họ, dựng đàn cầu siêu.
Chết rồi nghiệp chướng đốn tiêu
Không phân bạn nghịch binh triều gì đâu
Cảm thương quỉ đói cụt đầu
Giựt giành cháo lú xôn xao Nại Hà,
Tiết lành trà quả hương hoa,
Đèn hiu hắt giọi, la đà trầm bay
Sụt sùi quì trước lễ đài,
Lòng thành, ngươn soái đọc bài tế văn:

BÀI VĂN TẾ RẰNG:

“1-Phách lạc Tây Trì
Hồn vương Trung Thổ.

2-Trời đất mười phương mờ cát bụi,
dặm chông gai lận đận,
phận đói nghèo vướng mắc lắm oan khiên;
Biển dâu bốn phía dấy binh đao,
kiếp cung kiếm gian nan,
lớp trai tráng đeo mang nhiều lụy khổ.

Nhớ Linh Xưa:

3-Làng xóm chăm tằm nia lúc rẫy,
đồng tiền liền khúc ruột,
tánh thiệt thà lo chí thú làm ăn;
Cửa viên quan trận giáp trường nhung,
Giáo khiên kết bạn bè,
bề trung ái theo hồi còi chiêu mộ.
4-Tấc đất ngọn rau gìn phải đạo,
Dám mong điều phú quí vinh hoa;
Nghĩa dân ơn nước sống trọn tình,
Đâu sá cảnh cơ hàn gian khổ
5-Biển lặng gió gầm;
Đất bằng sóng vỗ.
6-Ngàn trùng cách biệt kiếp vong gia;
Muôn lối âu lo người thất thổ.
7-Khói đen cuộn tan tành nơi nương náu,
Thương mồ mả ông cha tổ phụ,
lòng chạnh tình khó bước chơn đi;
Lửa đỏ thiêu tụi lủi vốn dụm dành,
tiếc công lao nước mắt mồ hôi,
dạ đoái cảnh khôn cầm lụy nhỏ.
8-Gót lưu lạc nhớ vườn cà giàn mướp,
Biết bao giờ đầm ấm tình quê;
Thân nổi trôi nằm góc biển ven mây,
Thương bỗng chốc xa rời chốn cũ.
9-Dạ muối xát nẻo trời quen đất lạ,
Nghĩa cù lao,
công hoạn dưỡng,
đâu đã đắp bù;
Lòng kim châm nơi doi sáng,
vịnh chiều,
ơn cúc dục,
đức sanh thành,
hẳn chưa báo bổ.
10-Xẻ đàn tan nghé,
Khó trọn đạo cha con;
Rẽ thúy chia quyên,
Khôn trọn tình chồng vợ.

Khá Thương Thay:

11-Giặc giết dân nghèo;
Trận bày xóm nhỏ.
12-Buổi loạn lạc nào theo điều nhơn nghĩa,
Đau đớn nghĩ người dân lương thiện,
mắc oan tình đành chôn xác rừng xanh;
Lũ bạo tàn đâu thiết chữ khoan dung,
ngậm ngùi thương trẻ ấu thơ,
chẳng nợ máu cũng vùi thây lửa đỏ.

Cho Nên

13-Anh hùng quyết dốc sức chem. Kình;
Hào kiệt lăm ra tay bắt hổ.
14-Hoặc là vướng cha thù anh oán,
Mang cung kiếm đeo lòng thù hận,
sức vẫy vùng nào kể tử sanh;
Hoặc là đền nợ nước ơn vua,
cắp mác dao trải mật trung trinh,
chí ngang dọc đâu màng yểu thọ.
15-Nghĩa cả nặng nề;
Thân trai năng nỗ.
16-Chim sè cánh xông vào cơn bão đạn,
Lòng nôn nao quét sạch bọn sói lang;
Rồng giương vi lướt dưới trận mưa tên,
dạ hăm hở đánh tan loài beo hổ.
17-Mòn mỏi cảnh nước khe cơm vắt,
Kiếp vô phần mãi đeo đẳng gót tha hương;
Đắng cay nơi đầu kiếm mũi dao,
niềm bất hạnh chẳng buông tha đời viễn thú.

Thương Ôi!

18-Cam phần căn phận định rủi may
Phó mặc đất trời ban lành dữ.
19-Thây rã rời nào kẻ xót thương;
Kiếp lao nhọc ai người che chở.
20-Cánh bằng lướt mây cao chin vạn,
Gươm lạc hồn, gói da ngựa nào hay;
Sức kình đè sóng dữ muôn trùng,
Kiếm đoạn mạng, nắm long hồng vội bỏ.
21-Mộ bạc phần vèo rít gió rừng hoang;
Xương vô chủ mờ soi trăng bến cũ.
22-Xuân Thu vắng lễ chưng thường
Sóc vọng lặng hương tế tự.
23-Chiều xuống muộn mong người xa xứ,
chợt nhớ cảnh én Nam nhạn Bắc,
vô tình bốn bức sầu giăng;
Đêm về khuya nhớ kẻ vắng nhà,
chạnh nhớ câu chồng Sở vợ Tần,
bất giác hai hàng lụy nhỏ.
24-Tàn cổ thọ mưa thu buông buồn lạnh,
Hương án ngọn đèn chong leo lét,
vợ dại còn đây;
Giọng đề quyên canh hạ điểm nhặt thưa,
Khăn tang bầy trẻ dại chít chiu,
Con thơ còn đó.
25-Dựa song lạnh im lìm tăm cá,
Nét võ vàng hướng mắt tận trời xa;
Ngóng người đi vắng bặt bóng nhàn,
bước sờ soạng gậy nương lần ngỏ nhỏ.

Ô Hô !

26-Một tướng danh thành;
Ngàn quân mạng bỏ.
27-Công hãn mã nặc nồng mùi tử khí,
Trăng mơ màng kêu réo quỉ Vô Thường;
Gác Lăng Yên lố nhố bóng cô hồn,
Đêm vắng vẻ khóc than ma uổng tử.
Bổn Chức Nay:

28-Chợt thấy kẻ che rũ màn xanh;
Thầm thương người xác vùi hố nhỏ.
29-Mảnh da ngựa bọc thây người chí lớn,
Xác xây thành trang sử vẫn chép ghi;
Lưỡi gươm vàng vấy máu kẻ thù chung,
Lính chết trận lòng dân luôn tưởng nhớ.
30-Ngôi Hoàng Cực sẳn mến tài hào kiệt,
ngự phê truyền xuống chỉ thưởng ban
Điện Kim Loan nay mở lượng biển trời,
Chuẩn tấu dựng lên đàn siêu độ.
31-Hoặc nợ sẳn với non xanh động biếc,
Lòng hư không phát nguyện tụng Huỳnh Đình;
Hay duyên xưa cùng phướn đỏ sen vàng,
bạn bè tiếp dẫn đưa linh về tịnh độ.
32-Tình người ấm áp,
lễ vãn vong rượu rót đôi bầu;
Trà quả đơn sơ,
tuần úy tế phẩm dưng một cỗ.
33-Phá vô minh xa lánh nghiệp luân hồi;
Theo chánh đạo tìm cầu đường giác ngộ.
34-Phò đất nước cho mưa hòa gió ngọt,
thuận ý trời mở đức Thuấn Nghiêu;
Giúp non sông cho bão dứt mây tan,
hợp lòng người lập đời Thanh Võ.

Có linh xin hưởng.”

Lời lời ý thánh câu thần,
Nên thiên hùng tráng, nên vần bi thương.
Tỏ mờ nến lạnh thê lương,
Ngẫm vời vợi cách âm dương - lệ nhòa,
Ai cầm được giọt châu sa!
Một luồng gió lạ cuốn qua thình lình.
Nghe dường vọng tiếng muôn binh
Khua gươm mặt đất in hình lưng mây
Chén trà chung rượu trong ngoài
Hốt theo trốt xoáy vù bay ngút ngàn.
Trời vần vũ phút tiêu tan
Từng cao xanh thẳm, ráng vàng thắm pha
Triều đình ngự bút ban ra
Tứ hôn hai họ giao hòa Huỳnh Châu
Xe tơ ả Chức chàng Ngâu
Pháo vui rộn rã đôi đầu cầu Ô.

7C- XIN TỪ QUAN

Nao nao khói phủ sóng xô
Chiều tà tơ tưởng mơ hồ bóng quê
Nước nhà tình vẹn đôi bề
Rượu quỳnh bày tiệc vườn lê tẩy trần
Châu rằng: “Trọn đạo quân thần
Giúp dân thoát ách đâu cần đẩu thăng
Ý ta noi dấu Nghiêm Lăng
Mồ hôi mát áo đất Sằn cày mây
Gậy tre dựa cửa ngày ngày
Nhớ nhung lớp lớp phủ dày mái sương
Quải đơm lạnh khói vắng hương,
Đất xưa đã mấy năm trường cách xa.
Bỏ quan vui thú yên hà,
Ngắm tùng thưởng cúc, thoát xa mê đồ
Năm canh hồn mộng ngẩn ngơ
Cố hương bóng cũ dật dờ chiêm bao
Công thành trở gót về mau,
Giữa trường danh lợi bạc đầu như chơi.
Oai danh sụp đất nghiêng trời,
Nhát gươm Lữ Trĩ, miệng đời gièm pha
Âm u vàng úa nắng tà,
Chũng Sơn cát lấp phù hoa sóng nhồi.
Mịch La đá lở bùn bồi,
Cô trung chết lạnh, no mồi kình nghê.
Sao bằng sống mọn nhà quê,
Bỏ vinh sang, giữ trọn bề thân danh.
Dịu hiền thay bóng tre xanh
Trà lan sương sớm, chén quỳnh trăng thâu.
Thơ đầy túi, rượu lưng bầu,
Ba ngàn thế giới cửa nào dám so?
Thảnh thơi doi vịnh con đò
Thong dong sải cánh bóng cò chiều sa.
Mặc lòng đi, ở, vào, ra,
An nhiên một cõi vượt qua thế tình.
Biển xa, núi thẳm trời thinh
Bước chơn thong thả, riêng mình tiêu dao”.
Trống rền vẳng vọng phụng lâu
Gió xao đình liệu, phiên chầu mờ sương.
Lòng thành rổi tấu quân vương
Khúc nôi ngành ngọn tỏ tường thềm hoa:
- “Ải mây ngựa chiến máu hòa,
Ôm vừng trăng quạnh quan hà bấy lâu
Non sông rạng sắc thay màu
Ban ơn lui gót sớm hầu từ thân”
Phán rằng: “Phạt sở diệt Tần,
Ơn mưa móc chưa hưởng phần mảy may
Làng xưa vội trở gót hài
Trăng hiên gió gác nhẹ vai tang bồng.
Xưa sao vui khổ chung lòng
Mà nay nỡ để cánh hồng tung mây
Minh mông trời rộng đất dài
Mờ tăm cá lội, trùng lai khó tầm
Qua cơn nước đục bụi lầm
Muôn nhà điêu đứng, nhơn tâm biến dời
Thuận lòng người ứng cơ trời,
Dạy dân phong hóa, mở đời thuần lương
Người nghèo còn lắm tai ương
Lầu không riêng đứng, hạc dường hay bay
Cầu hiền kén đức luyện tài,
Góp tay rường cột xây đài gấm hoa”.
Tâu rằng: “Ơn trọng hoàng gia,
Móc mưa rưới xuống cả nhà hiển vang
Qua hồi cơm lạnh máu chan,
Nhớ đồi mai trắng nhụy vàng quê xưa.
Huỳnh Sa bặt mấy mùa mưa
Bơ vơ mả lạn trăng mờ quạnh hiu.
Mái tranh nhớ sớm thương chiều
Mẹ già vai nặng gánh nhiều long đong
Tuổi cao tóc ngã màu bông,
Mười sương năm nắng tấc lòng nào yên.
Xin về giữ đạo con hiền
Tình nhà nghĩa nước vẹn tuyền cả hai”.
Khen rằng: “Cá nước duyên may,
Công đưa vận nước lên đài quang vinh
Hùm beo rũ xác non xanh,
Mặt trời soi thấu bến gành, hang sâu.
Gẫm tình biển rộng núi cao,
Xét trăm đức hạnh, đứng đầu hiếu thân
Vuông tròn ngay thảo mười phần,
Lòng nào se chỉ buộc chân chim hồng.
Tưởng người pháo lướt tên xông,
Giong gươm múa kích giữa vòng tử sanh
Đài lân, gác khói hẳn dành
Đặc sai xây cất phủ dinh trong làng
Xuất kho gấm vóc bạc vàng
Đền bù chút đỉnh so ngàn công lao”.
Tâu rằng: “ Bão táp ầm ào
Ngửa nghiêng thành quách, dãi dầu muôn dân.
Lửa binh dẫu giập tắt lần,
Nhà nhà còn chịu cơ bần nhiều năm.
Ruộng vườn thành chốn hoang lâm
Ngập đầu cỏ mọc, cọp nằm rắn khoanh
Kẻ nghèo vun xới đồng xanh
Xưa sung quân ngũ hiến mình quê hương
Tranh giành quyền sống sa trường
Trở về được mấy ?- Ruộng nương cấy cày
Xóm làng vắng bặt bóng trai
Song đơn lệ chậm nhỏ dài đêm sương
Muôn ngàn cảm đức quân vương,
Tin yêu thuở trước liệu lường ngày sau
Ơn sâu vẫn đội trên đầu,
Dám đâu nghịch ý, dám đâu trái lời.
Ghi xương khắc cốt trọn đời,
Coi như hưởng trọn lộc trời vua ban
Của nầy phát kẻ cơ hàn
Thị thành cứu tế, thôn trang chẩn bần”
Rằng: “E nước đục dơ chân,
Dấu tiên hoang tịch gởi thân giang hồ.
Sạch trong phụng đậu cành ngô,
Danh ràng lợi buộc mơ hồ phù vân.
Đã mong chẳng bợn bụi trần,
Lòng đâu nong cạn ngại ngần chẳng ưng
Đời người được mấy mùa Xuân,
Vua hiền tôi giỏi mấy lần gặp nhau?
Sợ khi tắt lối động đào,
Thiên Thai há dễ ra vào tìm tiên
Hẳn còn may-một chút duyên
Hãy cho trẫm một lời khuyên chí tình
Lấy nhơn nghĩa thế luật hình,
Chắc dân nước mạnh, thanh bình nơi nơi!”
Tâu rằng: “Đức lớn sáng ngời
Anh hùng hào kiệt giúp đời thiếu đâu
Tài lành chẳng kém Y Châu
Phơi gan trải mật theo hầu thánh quân
Lời quê đường đột kính dưng
Sợ điều phạm thượng, lo phần to gan
Lẽ ngay thô vụng luận bàn
Đền ơn tin cậy thánh hoàng đã trao”
Rằng: “Sao trên đón dưới rào?
Trẫm đà phủ dụ, khanh nào tự chuyên.”
Đêm dài thăm thẳm vô biên,
Khói mờ bóng lá, trăng nghiêng son là.
Trướng huỳnh nối sáp đài hoa
Châu Thông ngồi lóng tiếng gà thôn sương,
Ảo huyền hương tỏa mây vương,
Tay mài nghiên thảo biểu chương một bài.

BÀI BIỂU RẰNG:

“Hạ thần Châu Thông vưng lịnh điện Kim Loan,
được các lương thần trung liệt hết dạ chở che,
nhờ chư tướng sĩ đệ huynh đắc tâm giúp sức,
đem thân báo đáp ơn vua,
theo sắc chỉ ban tiễu trừ Yên tặc,
đem bình thanh cho sông núi,
mưu an lạc cho lê dân.

Nay hoàng thượng xuống chiếu cầu trực ngôn,
thần phụng tuân thánh ý,
khấu đầu trước bệ,
mạo muội tâu bày,
những mong thiên tử chí tôn hạ cố.

Thần Trộm Nghe:

1- Thiên, địa, nhơn, quán xuyến tinh thông là bực vương,
Nhơn, trí, dõng (dũng), hành sử điều hòa là bực Thánh.
2- Thánh vương thông tam đức;
Chơn chúa thấu tam tài.
3- Lễ trị hòa bình là lối đường ngay thẳng của bậc Thánh Vương
Lực phục hưng tâm là ngỏ ngách quanh co của phường Bá Đạo
4- Dựng nghiệp Vương thì đời kiếp vững bền;
Xây nghiệp Bá thì sớm chiều suy sụp.
5- Trụ Vương không sửa mình nên mang tiếng độc phu.
Vua Kiệt chẳng rèn nết nên mất nghiệp nhà Hạ.
6- Thiên tử, thứ dân lấy tu thân làm gốc;
Thánh vương, chơn chúa chọn tín nghĩa làm đầu.
7- Gìn thuyết Chánh Danh; Vẹn câu Trung Thứ
8- Sửa mình hoàn thiện; Tề gia chỉnh nghiêm
9- Nếu trị nước non tốt như xe săn sợi chỉ;
Thì bình thiên hạ dễ như lật ngửa bàn tay.
10- Mạnh Tử dạy quốc dân quí nhứt;
Triệu hậu hỏi Tề chúa sau cùng.
11- Ở ngôi vị kẻ bề trên, vua chúa thường:
- Lo trước vạn dân;
- Hưởng sau bá tánh
12- Thứ, Phũ, Giáo là chuyện triều chánh cần làm
Nhơn, Nghĩa, Lễ là việc lê dân phải học.
13- Học phong hóa để dân đen ở khéo nói khôn;
Dạy lễ nghi để trẻ nhỏ kính trên nhường dưới.
14- Sách thánh hiền trau giồi đức hạnh;
Đạo nghĩa nhơn cải đổi tánh tình.
15- Có học mới thấu đáo ngay gian;
Có khôn mới biết phân hơn thiệt.
16- Dân ngu tối tất chạy theo lợi nhỏ,
mà bỏ phế việc chung;
Dân khôn ngoan tất gác bỏ tình riêng,
Mà gánh gồng nghĩa lớn.
17- Cái khéo khôn của Khổng Minh
làm Tứ Xuyên hưng thịnh
Cái hèn kém của Lưu Thiện
làm Ba Thục suy vi.

Cho Nên:

18- Thủy Hoàng chôn nhà nho phòng bạo loạn là sai;
Văn Đế gom sách vở vào Thạch Cừ nào đúng.

Rốt Cuộc:

19- Sĩ phu đời Hán thấy gần nhìn cạn, gò bó theo khuôn;
Quan lại nhà Tần làm điếc giả câm, dạ vâng nghe lịnh.

Ôi !

20- Cái học tầm chương vô bổ, có lợi gì cho kế an dân;
Cái học trích cú đa đoan, có ích chi cho phương hưng quốc.

Còn Số Phận nhà Tần:

21- Làm cỏ Hàm Dương nào bởi kẻ đọc sách uyên thâm;
Châm lửa A Phòng là do tay chèo đò thất học.
22- Thiên hạ vốn thái bình;
Phiền nhiễu từ cung khuyết.
23- Vua theo gương Đế Nghiêu, Đế Thuấn, cầm giữ mối giềng;
Quan theo kế Ích Tắc, Cao Dao vun bồi liêm chánh
24- Gió lặng trời trong;
Sông bền núi vững

Và Dân Tình Sẽ:

25- Trời rạng ra làm;
Trời lặn về nghỉ.
26- Đào giếng mà uống
Cày ruộng mà ăn.
27- Rớt đồ vật không người để ý;
Vắng chủ nhà chẳng kẻ động tâm.
28- Dầu đất đai cằn cỗi nghèo nàn,
mà nhà hơn là ruột thịt;
Dầu phong thổ cay độc hiểm nguy,
mà trăm họ như thể tay chơn

Thì Có Sợ Gì:

29- Dòng họ Loan hành thích Tề Vương trả hận;
Dân bổn sở khiếp sợ hà chánh trốn quê.

Còn Ví Như:

30- Kho Quỳnh Lâm đầy ắp lụa tơ,
thôn xóm ngập tràn thây chết lạnh;
Lẫm Ngô quận chúa tràn thóc gạo,
làng quê la liệt kẻ đói nghèo.

Thì Ôi Thôi:

31- Nào lấy ai, dân tin tưởng;
Nào lấy đâu, nước dựa nương.
32- Ngựa béo phì, áo cừu nhẹ,
chẳng qua là máu tủy của muôn dân;
Quyền rộng lớn, bổng lộc cao,
cũng chỉ gây lầm than cho bá tánh.
33- Lũ ô lại mở miệng những vì dân vì nước;
Bọn tham quan đút túi những vì của vì tiền.
34- Phường bất tài ngất ngưởng ngôi cao;
Kẻ cô thế âm thầm ngục tối.
35- Vừng Thái Dương khó soi vào chậu úp;
Tiếng cùng đinh khôn kêu thấu trời cao.
36- Lũy tre xanh cách núi ngăn sông,
lúc rõ ra mới biết:
đứa gian tà hưởng miếng đảnh chung,
nhờ mưu ma chước quỉ;
Gác phụng tía cao tường kín lối,
chừng nghe lại mới hay:
người ngay thẳng lâm vòng tù ngục,
vì bọn ác lũ gian.
37- Lưỡi chồn cheo bầy bất nhơn thất đức,
chuốt ngọc trao châu,
che đậy tinh vi niềm oan ức của muôn dân
Áo gấm lụa lũ vô sỉ bất lương,
vẽ rồng thêu phụng,
lấp vùi kín đáo nỗi đau thương của trăm họ

Thần Trộm Nghĩ:

38- Tuần du xem xét dân tình;
Vi hành thẩm tra chánh sự.
39- Vương thượng mới nghe tận tai
tiếng cười khóc tận nơi nước đọng bùn lầy;
Bệ hạ mới thấy tận mắt
kiếp đọa đày của kẻ khố rách áo ôm.

Có Người Nói:

40- Dân muốn điều gì, trời chìu cái ấy.
41- Ưa chuộng điều sái quấy
thì hơi đâu dân mến dân thương;
Dung túng bọn bợn nhơ
là cớ để dân khinh dân ghét.
42- Dân thương như hàng họ, cơn hoạn nạn,
dân sẽ đâu cật chung lưng;
Coi dân như rác rơm, lúc hiểm nguy,
dân sẽ bịt tai ngoảnh mặt.
43- Lúc đó, lấy gì mà giữ yên bờ cõi;
Lúc đó, lấy gì để chống vững giang san ?.
44- Lòng căm giận dồn ngọn chùy Bác Lãng;
Lửa oán hờn ẩn khúc sáo Tiệm Ly
45- Binh lực Tây Tần nuốt trôi lục quốc,
vì bỏ dân nên Nhị Thế nát thây.
Oai danh Hạng Võ che rợp Giang Đông,
bởi bỏ nghĩa nên Ô Giang ôm hận.
46- Dùng gươm khuất địch, ai kẻ nể vì ? ;
Ban đức trị dân, người người mến mộ.
Giả Nghị Tâu Lên Cao Tổ:

47- Ngồi lưng ngựa chiến, thu phục Trung Nguyên, chẳng khó gì;
Chỉa ngọn giáo dài, trị an Trung Thổ, không dễ được.

Tôn Võ Tử Cũng Nói:

48- Lấy thành trì dễ lắm;
Thắng lòng người khó hơn.
49- Dõng (Dũng) là đầu mối trị dân;
Khoan là mối giềng trị nước.
50- Cái hay của khoan là được người hiểu biết tôn sung;
Cái dở của khoan là bị bọn u mê lạm dụng.
51- Phải lấy Dõng khắc chế Khoan để khỏi yếu mềm nhu nhược;
Phải lấy Khoan điều hòa Dõng để khỏi khô cứng khắt khe.
52- Trị hay loạn, luật phải nghiêm minh;
Hưng hay suy, quan phải chánh trực.
53- Cầm cân nẩy mực phải suy nghĩ đắn đo;
Chấp chánh nắm quyền phải cân phân lo liệu.
54- Luận công xét cùng tình đạt lý,
thẳng mực tàu chẳng nể chẳng kiêng;
Định tội xem rõ ngọn rành nguồn,
chiếu phép nước không thiên không vị.
55- Hình bất thượng đại phu;
Lễ bất hạ thứ dân.

Thần Cũng Nghe:

56- Một lời nói có thể hưng xã tắc;
Một lời nói có thể nát cơ đồ.
57- Tướng mạnh phấtt cờ chỉ kiếm,
chỉ đắc dụng lúc xông trận giữ thành;
Người hiền bóp trán vò đầu,
mới hữu ích khi giúp dân dựng nước.
58- Kẻ học rộng tất thấy rõ tiền đồ dân tộc;
Người trí non khó nhìn thấy hậu vận non sông
59- Cơ thạnh suy nằm trong bàn tay tính toán;
Lẽ thành bại ẩn trong khối óc lo lường.
60- Mưu chước Ngọa Long đẩy lui thiên binh vạn mã;
Miệng lưỡi Tô Trương khiếp kinh liệt quốc chư bang.

Cũng Có Người Như:

61- Tỉ Can, Cơ Tử, vì lòng trung gián chúa,
mang tội khi quân, đến nỗi sống cảnh điên cuồng,
mổ tim dưới bệ;
Khuất Bình, Ngũ Viên, dung lời thẳng can vua,
mắc oan thất sũng, tới điều treo đầu trừng trợn,
gieo xác giữa dòng.

Ôi !

62- Giọng cương trực chói tay chat óc,
biết nghe sẽ bền vững san hà;
Lời sàm nịnh nở ruột mát gan,
không lánh sẽ lung lay cơ nghiệp.
63- Bao trang lương tướng, tránh bọn gian tà,
phải náu thân nơi rừng sâu núi hiểm;
Bao khách anh hùng, khinh phường dối trá,
đành giấu mình nơi xóm vắng thôn hoang.
64- Vương thượng học gương sáng triều xưa,
mở khoa thi chọn văn thần đủ đức;
Bệ hạ ôn điều hay vua trước,
mở võ trường chọn dõng tướng xứng ngôi.
65- Đương uống ăn nhả cơm khỏi miệng,
chỉnh tề ra ngỏ, đón khách tài cao;
Đương tắm gội, quấn tóc lên đầu,
vội vã ra sân, tiếp người đức lớn.
66- Đãi sĩ phu, dung Lễ và Khiêm;
Xây Vương đạo, chuộng Nhơn và Tín.
67- Tìm ngọc quí trong bùn,
giảm chế đặc quyền bọn con quan vô học;
Kiếm vàng ròng trong đá,
bỏ bớt tập ấm bọn thừa kế bất tài
68- Ý vụng lời thô, thần hạ bạo ngôn rổi tấu;
Trời cao biển cả, Thánh Thượng rộng đức khoan dung.

Châu Thông Cẩn Tấu

7D- VỀ QUÊ

Mỏi mòn trông ngóng từng giây,
Thoi đưa thấm thoát tới ngày hồi hương
Đầu cây gió thoảng vấn vương,
Phai vàng đóa cúc, ngậm sương nụ quỳnh.
Vòm cao, bóng nguyệt bồng bình,
Sóng cương vô điện, cáo trình qui lai.
Tâu rằng: “Áo đỏ sân Lai,
Thẩn thờ mộng mị canh chầy đêm thâu
Ơn đồng trời rộng biển sâu,
Ruộng xanh cày cấy, phụng lầu lui chân”.
Phán rằng: “Đuổi được hươu Tần,
Đưa thuyền non nước qua lần phong ba.
Dấu lân mở hội thái hòa,
Níu chân chim hạc, ngóng qua non Bồng.
Phủi tay, lánh đục tìm trong,
Nhạn về góc biển, én mong ven trời.
Phong hoa tuyết nguyệt gọi mời,
Rong chơi cùng áng mây trời thênh thang.
Vui nghèo, ôm trọn chữ nhàn,
Công danh như sợi tơ vàng trăng sương.
Nơi nào sánh được cố hương,
Còn nhau đây, một bước đường chung đôi.
Người về quê, hẳn vui rồi,
Điện loan ngùi nhớ đêm thôi lại ngày”.
Ngập ngừng lá rắc đồi cây,
Tấm lòng trải rộng dặm dài chiến chinh.
Luyến lưu mấy nẻo trường đình,
Cuối sông, quằn liễu bẻ nhành chia tay
Gió chiều thoảng khúc Lạc Mai,
Khách Tiêu Tương vọng người Tây hướng Tần.
Giở roi, gắn gượng ngại ngần,
Ngựa đôi chầm chậm men lần ven đê.
Chàng rằng: “Mờ mịt núi khe,
Trọn hai hôm nữa chưa về tới đâu”.
Nàng thưa: “Tóc ngả màu sầu,
Một ngày một xế nhành dâu bóng chiều.
Buồn đau mẹ chịu đã nhiều,
Mòn con ngươi- ngóng buồn thiu- một người”.
Mĩm cười, chàng vội ngắt lời
- “Vợ hiền dâu thảo, vàng mười dám so.
Thương nàng sớm biết âu lo,
Sợ sông chậm chảy, sợ đò biếng đưa.
Sợ người lao nắng khổ mưa,
Dẫu khô suối lệ- còn chừa đôi ta.
Chừng nào bước cẳng tới nhà,
Đèn đoàn viên đậm hớp trà hỏi han”.
Rêu phong đá chụm lớp hàng,
Lung linh thóp ngọn mây vàng ấp cây.
Trời hừng lất phất mưa mai
Mành sương xám phủ giăng bày núi xa.
Hàng thông im khói la đà,
Cành dang tay, giọt nước sa nửa lừng.
Chàng rằng: “Án bóng cây rừng,
Dìu nhau lên đảnh trông chừng làng xưa.
Ngày đi- cầu nhỏ vó lừa,
Mai gầy gội bảy mùa mưa mới về.
Cối trăng đổ bóng tre quê
Chày lơi đêm muộn nặng nề nhịp tay”.
Chuyện trò rút vắn đường dài
Dòng sông vô ngại, cây bày lối quen.
Đổi thay chinh chiến từng phen
Nhớ gì đâu! Đóm làm đèn ngày thơ.
Đò năm nao, bến vẫn chờ,
Cây da cũ đứng bơ vơ chiều tàn.
Đường quanh co mịn cát vàng,
Lửng lờ mây hiện kẽ tàn lá râm.
Đây rồi, luống cúc âm thầm,
Héo khô năm tháng, ướt dầm sương sao
Lỏng yên, ngựa cột cội đào
Trẻ con ríu rít chạy ào ra sân.
Cùng tìm chào chị Nam Vân
Liễu xanh nắng áp mười phân héo xàu.
Ai đi dốc nước biển sầu,
Nhộm cho trắng hết mái đầu gian nan.
Cầm tay mắt lệ chứa chan,
Sợ chim đơn khó nhập đàn cùng bay.
- “Em từ chinh chiến cõi ngoài
Phòng văn lửa lụi, hiên mai trầm tàn.
Đoàn viên ấm khói trà lan,
Ruộng nương tình cũ, tầm tang nghiệp nhà.
Giàu sang đất lạ người ta
Ví đêm tối mặc gấm hoa làm gì !”.
Châu rằng: “Em bước chơn đi
Xuống yên cởi giáp ngay khi công thành
Hiềm vì lệ cũ triều đình,
Bạn bè bịn rịn chưa đành chia tay.
Nhớ quê trằn trọc đêm dài
Thẩn thờ hồn mộng áng mây quê nhà”.
Đưa nhau ra mắt mẹ già,
Rưng rưng trĩu giọt sương hoa cuối mày
Rằng: “Ơn nuôi dạy cao dày,
Đỡ nưng bồng ẳm mảy may chưa đền
Kể từ binh lửa nổi lên,
Phận con lá mọn bến ghềnh ngược xuôi.
Rủi may phó mặc tay trời,
Nằm vùng đất chết, lăn nơi pháo gầm.
Mười thu dài tưởng trăm năm,
Đày thân miệng cọp, ăn chằm ngủ hang
Sợ rừng gươm giáo thác oan,
Vùa hương bát nước chưa an tấc lòng
Tranh mây nổi mấy mùa đông,
Mừng huyên đường tuổi thọ đồng Nam San”.
Rằng: “Nơi hổ huyệt long đàm,
Hoặc đành vắn số hoặc cam khổ hình.
Giành nhau gan tấc phù sinh
Ơn cơm nợ áo, lụy mình, than ôi!
Biết đâu phần số định rồi,
Kiếm chìm đáy nước, gãy đôi giữa đàng.
Hơn thua nhau thế cờ tàn,
Nẻo qua vinh hiển, nẻa sang Nại Hà
Gạo thơm đậm vị muối cà
Áo bô quần vải đậm đà tình quê
Mặc lời khen mặc tiếng chê,
Coi như ngọn gió nhẹ về thoảng ngang.
Bỏ danh lợi lấy thú nhàn,
Thóc đơm rẫy tốt, tơ vàng dâu xanh”.
Dịu dàng vuốt tóc Vân Anh
- “Quả đây phước lớn trời dành cho ta
Giấc Xuân đượm giọt móc sa,
Nhành mai mong sớm trổ hoa đầu mùa
Trẻ thơ rộn tiếng cười đùa,
Văn thơ viện sách, thêu thùa phòng loan
Đầy nhà, tươi quế tốt lan,
Chung trà đơm quãi, nén nhang phụng thờ”.
Thưa rằng: “Tai đợi mắt chờ,
Đinh ninh tấc dạ ngóng mơ đêm này,
Thiệt thà một một hai hai,
Hòa vui công việc cấy cày nhà nông.
Trăm năm sau trước một lòng,
Đâm chồi nẩy tượt nối dòng Nho gia,
Hôm mai bên gối mẹ già,
Khay trầu canh lụn, kỷ trà sương khuya.
Trông non lúa thúng tằm nia
Gánh gồng lao nhọc, sẻ chia ngọt bùi”.

7E- CUNG CẦM QUÊ CŨ

Chim nương cửa ổ bồi hồi,
Giá đông e ấp núi đồi lùi xa .
Cỏ non trải mái thướt tha,
Khẳng khiu cành nhánh, cội già rộ bông.
Ngươn tiêu, trăng ngọc xiên song,
Trời mây xao xuyến, người lòng lâng lâng.
-“Huỳnh hôn vừa rạng bóng ngân,
Tay đờn nách rượu thưởng Xuân đôi mình,
Gò mai gần Bảo Chơn Đình,
Cạnh Trung Tân quán rộng thinh đất trời”
Nàng rằng: “Bao độ lá rơi
Hoa phù dung nở vẫn đời tha hương
Sầu tư hồn bướm vấn vương
Thương cây nhớ cội, giọt tương khôn cầm
Hoa đơm cành tuyết đêm rầm,
Gợi tình quê, luống tủi thầm lâu nay”.
Chàng rằng: “Cung kiếm luôn tay,
Thạnh Hòa xưa, há riêng ai vọng về .
Binh reo lửa nổi tư bề,
Ngày đi hẳn biết, ngày về e không.
Mấy năm ruột rối bòng bong
Vuông tre bờ trúc não lòng người ơi .
Nước non réo gọi bên trời,
Nằm chưa ấm chiếu, chơn dời đi xa .
Lục bình bốn biển là nhà,
Trọ nhờ một tối cũng là quê hương
Mất còn gởi mạng chiến trường,
Lòng quì vẫn hướng thái dương một vừng
Cắn đôi hạt muối đã từng,
Quăng chài canh muộn, băng bưng nắng nồng.
Quê nàng nương náu mấy đông,
Cánh chim bạt gió, gởi lòng cho ai.
Vẫn hồ đầm, vẫn đồi mai
Về đây mộng mị canh dài mông lung.
Đôi nơi chung mối cảm thông,
Cõi Nam mòn mỏi mắt mong phương Đoài .
Sang năm hứa tháng ngày nầy,
Giong thuyền Long Ẩn, ngắm mây Mai Đình”.
Gương Nga len cội lỏi cành,
Sợi mây mảnh dẻ giăng mành che ngang
Sương mơ lặng ngọn cỏ lan,
Lối qua in ngấn đá vàng long lanh.
Chàng rằng: “Nhơn kiệt địa linh,
Lòng người điên đảo, trị bình đổi thay .
Đau thương dậy khắp cõi ngoài,
Cỏ hôi chẳng bén đồi mai quê nhà .
Đồn rằng xưa có ông già,
Hạo Nhiên là hiệu, yên hà rong chơi .
Phanh thây lũ sói ăn người,
Chuyển xoay máy tạo bứng dời non xanh
Sự đâu chua ớt cay chanh,
Nước non Ba Thục phút đành tro bay .
Chôn danh vùi dấu chốn này,
Nhà tranh một mái tháng ngày tiêu dao
Thanh gươm ngang dọc thuở nào,
Bẻ đêm mưa lạnh- mặc dầu thời gian
Một đời trải mật phơi gan,
Tấm lòng son, núm đất vàng phôi pha .
Đó đây mây nổi trăng tà
Văn chương cốt cách, kiểng hoa tinh thần.
Thong dong biển Sở rừng Tần,
Đền thiêng in gói, non thần đề thơ .
Tìm nguồn gởi mộng khơi mơ,
Chiều lên bước mỏi quán bờ Giác nhai
Tự mời chén tỉnh chén say,
Lửa xao bấc lụn, lạc loài gió xiên.
Chập chờn bóng hắt ảo huyền,
Song thưa phất lạnh, giấc liền chiêm bao
Nữ lang hé cửa cúi chào,
-“Mối duyên kỳ ngộ dễ đâu tương phùng.
Thuyền quyên mến mộ anh hùng,
Ly tao lựa vận họa cùng tri âm”.
Xinh xinh mắt phụng mày tằm,
Hương xông áo lụa, tuyết dầm gương nga
Xiêm y tha thướt gấm là,
Hài vàng gót ngọc, lược ngà tóc mây .
Hỏi rằng: “Quê chắc gần đây
Đầu đuôi chưa rõ dạ này sao yên”.
Đáp rằng: “Sẳn có cơ duyên,
Xui người lạc bước non tiên đêm này,
Ta là thần nữ bạch mai,
Làu làu vóc ngọc giữa ngàt giá đông,
Thương người khí tiết một lòng,
Nghèo không để gợn bụi hồng mấy khi .
Bèo mây hợp bến phải thì,
Chuyện trò - Chẳng đọ so gì thơ văn”.
Ngẩn người ra lão thưa rằng
-“Mây đưa chở khẳm thuyền trăng dặm dài .
Ban lời chỉ dạy một vài,
Họa nguôi ngoai nỗi ai hoài bấy lâu”.
Búp măng tay điểm nhiệm mầu,
Bút thần thoăn thoắt tám câu năm vần
Ngây nhìn thư pháp tần ngần,
Tài hoa điêu luyện người trần dễ so .
Hương trầm thoang thoảng khói lò
Hoa tiên sương đẫm thập thò chồi mai .
Ý rằng: “Con tạo sắp bày,
Nhỏ không trong, lớn không ngoài khuông thiêng.
Trăm năm bia miệng còn truyền,
Bạo tàn đâu dễ cướp quyền hóa công,
Dầu ai vẽ rắn thêu rồng,
Giùi trong túi vải khó mong giấu đầu
Vẫn vơ chuyện cũ đâu đâu,
Giận hờn giảm thọ, buồn rầu thiệt thân.
Tồn tâm, tịnh khí, dưỡng thần
Sống tự nhiên, kéo tuổi xuân mãi dài .
Trời cao thẳm, hạc vờn mây,
Tinh khôi bong trắng đóa mai trong ngần”.
-“Linh căn chắc đã có phần,
Duyên mai mới được tiên nhân giải bày,
Vưng lời, lãnh ý từ rày,
Coi đời như giấc mộng dài đêm đông.
Lành thay ! Vạn pháp giai không
Dẹp tham đắm,giải thoát gông lụy phiền
Kiếp trần vô sự là tiên,
Thơ nhàn gió gởi, rượu nghiêng trăng tàn
Khen chê, mặc tiếng thế gian,
Như người khách lạ hỏi đàng rồi qua”.
Trà đàm vị hãy đậm đà,
Tiên nương vội tạ, bóng hoa khuất mành.
Gót sen thấp thoáng đoản đình,
Nuối trông theo, muốn lưu tình phút giây .
Chập chờn bướm mộng lầu Tây,
Tỉnh thôi lại nhớ, tiếc hoài giấc xuân.
Rạng ra dò hỏi thôn lân,
Rằng:”Cô Phong Đãnh cũng gần đó thôi .
Tụ ngưng linh khí đất trời,
Sương giăng tháng tháng, mây chơi ngày ngày .
Núi vòi vọi, ngọn xanh cây
Có bông huỳnh điểm tố mai khác thường.
Nhụy vàng cánh bạc dịu hương,
Tâm tình cốt cách tiên nương khác gì .
Ươm cành chiết nhánh đem đi,
Che cơn mưa lớn, đậy khi nắng chiều .
Dày công vun bón nưng niu,
Cò bay ngựa chạy, mỹ miều sắc hoa .
Thời gian xô cỗi mai già
Hạc mây bầu bạn, trăng ngà thân quen.
Giữa đồng cỏ nội hoa hèn,
Quên nghèo vui đạo, bon chen mặc đời”.
Nàng rằng: “Thế chuyển tình dời,
Tiết ngay lóng trúc, tuyệt vời thanh cao .
Vẫy vùng để tiếng anh hào,
Quê mùa rẫy bái sạch làu gương trong”.
Ngượng ngùng bấm nhẹ tay chồng
Màu hoa đào ửng má hồng bóng xiên,
Ấp e má lún đồng tiền,
Phu dung hé nhụy càng duyên đậm đà .
-“Đầu mùa nặng ngọn mưa sa,
Tan mây còn đọng ruột hoa vị nồng”.
Chàng rằng: “Nề nếp gia phong,
Hương sen giữ đức, vóc tong làm thân.
Sống làm tướng, chết làm thần,
Hiến mình cho nước, chẳng cần lợi danh
Yên làm ruộng, động làm binh
Loan ly vào trận, thời bình treo cung.
Hạo Nhiên là đứng anh hung,
Bẻ gươm treo ấn, rừng tùng tìm tiên
Lòng không, vượt biển lá thuyền,
Vành trăng tĩnh mịch, soi nghiêng Lăng già .
Mớm truyền hoài bảo con ta,
Tổ Quân là chữ, hiệu là Xung Hư”.
Khoảng không sâu lắng tâm tư,
Lưa thưa nhấp nháy sao lừ đừ xa .
Nàng rằng: “Phủi nợ can qua,
Gặp nhau đây, cứ tưởng là chiêm bao
Sắn bìm nương bóng tùng cao,
Đêm thanh chuốc chút rượu hầu phu quân”.
Chàng rằng: “Phơi phới lòng xuân,
Đồi xưa, cội cũ gặp tuần đương hoa .
Qua vùng đất lạnh máu pha,
Rởn chơn kinh khiếp còn ta với mình
Quê nhà đổi dạng thay hình,
Đồi mai lại thoảng hương tình ấu thơ .
Hèn lâu bặt tắt đường tơ,
Cung cầm quê cũ đương chờ tay tiên”.
Liếc tình rõ khéo vè duyên,
Bày điều khách sáo để phiền cho ai.
Ruộng nương canh cửi rảnh tay,
Nghề riêng soạn sẳn một vài cung thương
“Mai Khâu Nguyệt Lộ” nên chương
Bồi hồi ôn lại quảng đường bôn ba,
Rổ may kim chỉ về nhà,
Ấm tình cỏ mọn nở hoa bao ngày .
Vì chàng nắn phím so dây,
Bù nhung đấp nhớ chuỗi ngày Sâm Thương”.
Rao đờn, lá cỏ nặng sương,
Sóng vương vất khói, mặt gương nguyệt lồng.
Len nhành, thắm nhị từng bông.
Mát tươi cánh trắng mơ mòng hương bay.
Thờ ơ rượu bốc men cay,
Liễu say dã dượi sàn đài Cô Tô
Tiếc mà chi lắm xương khô,
Phấn hương đập đổ cơ đồ Ngô Vương.
Cảm thương phận mỏng má hường,
Rọ dìm sông nước Tiền Đường kiếp hoa .
Phù dung sánh bước Hằng Nga,
Cá trầm đáy vực, nhạn sa lưng đèo .
Phím ngà tay lượn ngón leo,
Hắt hiu hơi lạnh lướt vèo cành mai .
Rồi như phương chuyển hướng xoay,
Ngựa bon đua gió, ruổi ngoài đồng hoang.
Bể tan nát đá vụn vàng,
Mưa sa gió táp cung đàn ai hay .
Thưa rằng: “Cổ bản khúc nầy,
Nhịp vui nào khác tiếng chày đêm quê”.
Tơ xe ải nhạn khó về,
Nắng chan rát mắt, lòng đê mê sầu .
Ngó quanh còn có ai đâu
Đá trơ cát phỏng, héo xàu cỏ hoa
Ai thương giùm cội thung già
Tình phai cung Hán, oán pha đất Hồ .
Nhị tàn, bướm rũ bơ vơ,
Nhớ thương dài tới bao giờ mới tan.
Nghe dường giọng khóc lời than,
Ngày nương song quạnh, đêm tàn bóng đơn.
Canh he, quốc lẻ nuốt hờn,
Trời Ngô Quận, giấc chập chờn thê lương.
Lệ hoen mành trúc bến Tương
Sóng xô vùi tiếng đoạn trường canh thâu .
Tay len lén vém rèm châu,
Liễu chen biên biếc mút đầu đê xanh.
Ngựa hồng mỏi vó công khanh
Trễ tràng yên lạc, vắng tanh bóng người .
Nẻo xa mặt biển chơn trời,
Mưa đêm, ai có nhớ lời nước non!
Trăm năm lỡ cuộc vuông tròn,
Ai đi để kẻ ở mòn con ngươi
Được thua dở cuộc khóc cười,
Niềm hoài hương vẫn cứ khơi lệ hồng.
Cõi Nam viễn khách não lòng
Lọt tai muốn khóc –nhưng không, chỉ sầu
Rồi êm ả, gió thoảng xao,
Sông dài trải lụa lẫn màu mây khơi .
Âm ba bực đổi cung dời,
Hào quang lan tỏa bóng người chinh phu .
Quê nhà bỏ hận xóa thù,
Sương giăng vùng biển mây mù vụt bay .
Nghiên khô mực mới lại mài,
Giở trang sách nát, quên ngày dọc ngang.
Gương hồ vỡ ánh trăng tan,
Bẻ đôi kiếm liệng, sóng vàng lan xa .
Nước trong, giếng cũ pha trà
Non nhành lúa sớm, thơm hoa sim ngàn.
Tiếng tơ trầm ấm cài đan,
Quyện cơn gió lượn mơn man theo dòng.
Thoát đâu trải rộng bình bồng
Vút lên rực bóng ráng hồng non cao
Ném đi mảnh ấn phong hầu
Rẽ mây, hạc nhẹ cánh vào Thiên Thai .
Phím loan cảm nguyệt ngà say,
Thiếp đi, chợt tỉnh, nhỏ vài dư âm.
Khen rằng: “Điêu luyện ca cầm,
Văn Quân tấu Bạch đầu ngâm dám bì .
Nghe đờn tiếc gã Chung Kỳ
Gởi vàng chọn mặt quản gì xa xôi .
Cớ sao mọc nhánh đâm chồi,
Tách khuôn nhạc cũ, xa rời điệu xưa ?”.
Trình rằng: “Hết nắng rồi mưa,
Nhạc thay đổi sắc có thừa ngàn năm.
Lại thêm thiên lý tòng tâm,
Ứng vào phách điệu sắt cầm nào sai.
Đạo trời từ một chẳng hai,
Đi về, vận chuyển, vãng lai khôn cùng.
Hóa sanh, sanh hóa điệp trùng,
Chi li phức tạp theo dòng thời gian.
Rồi từ cảnh sắc đa đoan,
Kiếm nguồn tìm cội qui hoàn ban sơ .
Quanh co, vạn nẻo muôn bờ,
Ra vô chẳng lạc cậy nhờ Chơn Tâm
Rộng suy nhạc luật ngũ âm,
Lìa tâm nhập cảnh, hướng tâm quay đầu .
Biến ra cõi thế muôn màu
Trở vào giữ gốc nhiệm mầu cơ nguyên.
Hành tàng xuất xử còn truyền,
Tùy thời theo thế, kinh quyền làm hai .
Phép khuôn trước trót sắp bày
Hòa chung nhịp sống phải thay dạng hình.
Trời đày người cõi bất bình
Buộc ràng lục dục thất tình đâu đâu .
Tóc xanh phút hóa trắng đầu,
Có gì mãi mãi bền lâu với đời .
Theo nguồn chia mạch hướng khơi,
Qua Tây về Bắc đâu rời biển Đông”.
Chàng rằng: “Được cởi tấm lòng,
Trước sau đã thấu, ngoài trong đã tường.
Ngôi cao mở đạo đế vương,
Sửa mình rèn nết, dựa nương dân tình.
Ví như hôn ám bất minh,
Hôi tanh sắt máu, luật hình gớm ghê,
Bỏ nguồn, bỏ gốc u mê,
Dân đen ruồng bỏ, dựa kề ách tai .
Tinh thông nghệ thuật cầm đài
Từ căn cơ vững, tình ngoài phát sanh.
Ngu si theo ngọn chọn cành
Lãng quên chẩn mực, âm thanh xô bồ
Khư khư phép vụng khuôn thô,
Điệu đờn chai cứng, tiếng khô như sành”.
Chìa vôi vội báo tan canh,
Chim rừng thức sớm chuyền nhành râm ran.
Ngủ đường nội cỏ mơ màng,
Sông hây hẩy gió, sóng tan nửa vời .
Dặm về, cây đổ bóng rơi,
La đà lá thấp, rã rời tàn nghiêng
Hồi chuông cảnh tỉnh nghiệp duyên,
Ngân nga điểm giọt diệu huyền lưng mây .
Vườn thơm hương bưởi ngất say,
Nhịp lơi kẻo kẹt, gió day tre già,
Cúc vàng tứ quí còn hoa
Đơm chen lá lục, nhạt nhòa sương chan.

Ý kiến bạn đọc

TÌM KIẾM BÀI THƠ
Nhập từ khóa:
Tìm kiếm