đồi mai vùi kiếm (5)
      
      
      
      
        HỒI THỨ NĂM 
Dưng biểu chương, tấn cử Châu Thông 
Thắng Nghiệp Thành, trùng phùng mai trước 
5A-QUÁCH TỬ NGHI ĐỀ CỬ CHÂU THÔNG 
Phiên chầu tới lệ đầu Xuân, 
Tử Nghi dưng sớ điều trần điện loan 
“ Kế khơi nước lũ Trường Giang 
Tưởng bình Nam Ngạn vẫn hoàn tay không 
Tâu lên tấn củ Châu Thông 
Nắm quyền thống lãnh binh nhung đối đầu”. 
Hỏi qua khanh tễ đương trào 
Đức tài tánh hạnh thế nào cho minh 
Lời tâu thấu lẽ đạt tình 
Nhà vua ban chiếu sứ tinh lên đường 
Lịnh thay người thủ biên phương 
Châu Thông phụng chỉ going cương ứng hầu 
Phán rằng: “Chận chốt bấy lâu 
Nay giao Quang Bật trước sau sắp bày 
Ngự triều vừa hỏi sáng nay 
Đôi bên xáp trận, dở hay đã tường 
Nam chinh, ngươn soái bị thương 
Sức người hao kiệt, khó đương thế tình 
Mất còn trong cuộc giao tranh 
Khá tua đắp lũy bồi thành chống Yên 
Xét trong tướng giỏi tôi hiền 
Mừng khanh thao lược bút nghiên co dòng. 
Đặc sai chưởng quản binh ròng 
Ấn vàng,gươm lịnh, tiện dung trong quân”. 
Tâu rằng: “Cao thẳm chin từng 
Ơn mưa mốc gội, sánh vừng thái dương 
Nhọc nhằn lũng nước ngọn sương 
Mười phần vắn số, một phương sống còn 
Gió giông sóng dữ thuyền con 
Phải tay lấp biển dời non mới là 
Ý thần chờ đợi soái gia 
Phục hồi khí lực dần dà sẽ hay”. 
Tử Nghi quì trước kim giai 
“Cứu binh như cứu hỏa tai khác gì 
Tướng quân tài ít kẻ bì 
Non đồng vách sắt phải kỳ ngửa nghiêng 
Ra tay tướng mạnh Kỳ Liên 
Gở dân đen khỏi xích xiềng phong ba 
Thuấn Nghiêu thánh đức rạng xa 
Xây nền lễ trị, quốc gia thái bình”. 
Châu thưa: “Tự lượng sức mình 
Khó đưa vận nước vượt gành chông gai 
Rủi ro lỡ một lầm hai 
E không đáp nổi mảy may thâm tình 
Soái gia cùng với thân sinh 
Bút nghiên chung lứa, lửa quỳnh sánh đôi 
Thương mình gặp thận cút côi 
Nguyện hầu dưới trướng qua hồi gian nan 
Nghiệp Thành xe ngựa địch càn 
Chơn Trần dòng đục, Sài Tang máu hòa 
Thân đơn đầm ấm tình nhà 
Cửa viên trăng gợn sóng trà đậm hương 
Phán rằng: “Cân nhắc sở trường 
Cắt người đúng việc, liệu lường mới hay 
Hồn thiêng đất tổ an bài 
Quách trong then khóa, Châu ngoài hải ngung
 
5B- ĐĂNG ĐÀN BÁI TRƯỚNG 
Ngày lành luống đợi những mong 
Gấm năm màu dệt mây lồng Vị giang 
Xe rồng biệt điện Kim Loan 
Cấm binh hộ giá thẳng đàng Liễu dinh 
Mối duyên cá nước mặn tình 
Đồi Long Trung bái Khổng Minh độ nào 
Thạch bàn trăng xế buông câu 
Xe Văn tìm lối, lễ cầu Tử Nha 
Đài chưng dị thảo kỳ hoa 
Cờ trương ngũ sắc, nhạc hòa bát âm 
Khua chiêng gióng trống ầm ầm 
Tướng đài cao, đội ngự lâm đứng dàn 
Kim khôi giáo bạc đai vàng 
Lên đàn Châu bước giữa làn trầm bay 
Mặt nhìn hướng Bắc chắp tay 
Quì nghe Thái Sử đọc bài chúc văn 
Cáo cùng “Hà Bá Sơn Thần 
Năm non bảy núi sông gần biển xa” 
Đông Cung Lý Xúc trao ra 
Ba xuyên vân tiển, cung ngà Chấn Thiên 
Khấn rằng: “Thủy Thổ Sơn Xuyên 
Ban ơn cứu độ sĩ hiền từ nay 
Trời xanh chin vạn, đầt dày 
Núi cao dẫu mấy sông dài bao lăm 
Trao người thề nguyện nhứt tâm 
Dãi dầu sớm nắng, ăn nằm chiều sương 
Phơi gan trải mật mười phương 
Dấu lân hoa nở ngát hương thái hòa” 
Cung tên gói bức khăn là 
Cúi mình đón tiếp đưa qua ngang mày 
Đi lên phủ phục từng hai 
Hướng cung Càn vọng bên tai mấy vần 
“Chứng tri Nhựt Nguyệt Linh Thần 
Các vì Vua trước trị dân nối đời 
Trời xui cồn hóa biển khơi 
Quyền giao tướng giỏi đáp lời non sang 
Dưới tay năm lộ binh ròng 
Rộng ban đức lớn, khéo dùng mưu cao 
Công bằng phép trọng làm đầu 
Cầm cân nẫy mực trước sau chẳng dời 
Tứ ban vật báu cho người 
Thẳng tay sáng suốt chế tài ba quân 
Tử Nghi trao phủ ân cần 
Châu Thông lạy tạ lên tầng thứ ba 
Áo rồng ánh sắc vàng pha 
Cửu long nạm ngọc, khăn sa hồng đào 
Mặt trông Nam nhạc cuối đầu 
Tiêu thiều trổi khúc ngạt ngào khói hương 
Cáo rằng: “Theo nghiệp tiên vương 
Bao triều thạnh trị, biên phương vững vàng 
Vừa rồi giặc cỏ Sử An 
Dấy binh bốn cõi gieo nàn muôn dân 
Dốc lòng noi dấu Thương Ân 
Chư hầu họp bến, Mạnh tân dẹp loàn 
Nằm gai nếm mật gian nan 
Điều xe khiển pháo Võ Thang về trào 
Trình lên đất thẳm trời cao 
Gởi vàng chọn mặt tin trao quyền hành 
Châu Thông thống lãnh muôn binh 
Đặc sai trọng nhiệm Bắc Bình phạt Yên”. 
Phán rằng: “oai đức cửa viên 
Nắm cầm quân pháp mối giềng kỷ cương 
Trao thanh gươm báu Thượng Phương 
Hổ phù ngọc tiết ấn vàng nguyên nhung 
Gìn non nước vẹn lòng trung 
Đưa thuyền cỡi sónTâu rằng: “Bồi đắp san hà 
Xả thân đâu ngại lệ hòa máu xương 
Oằn vai gánh nặng cang thường 
Kiếm mòn, tóc điểm màu sương sá gì! 
Lòng son nguyện giữa đơn trì 
Trên vì chín bệ, dưới vì muôn dân”. 
Hỏi rằng: “Phá Sở dẹp Tần 
Văn tài sử Mã, kinh luân thong làu 
Kén binh chọn tướng làm sao 
Dùng người xếp bực lẽ nào khá phân”. 
Tâu rằng: “Thấu việc xa gần 
Ung dung chiếu rượu chỉ cần vẫy tay, 
Gieo mưa cuốn bão cõi ngoài 
Được thua quyết chắc không sai tơ hào 
Tam tài một mối gồm thâu 
Xét trong võ đức, đứng đầu là nhân 
Khương Công quả thiệt tướng thần 
Anh hùng chỉ một, dưới trần mấy ai 
Bàn qua hào kiệt hạng hai 
Sắp mưu dung trí giỏi tài điều quân 
Thắng muôn trận lớn lẫy lừng 
Kế sâu nọc hiểm không ngừng liệu toan 
Đủ trò dụ gạt trá gian 
Điêu linh trăm họ, vẻ vang riêng mình 
Xương khô xây lũy đắp dinh 
Ép người vào rập, lấy hình làm căn 
Hoài Âm sát khí đằng đằng 
Lôi ngay Ân Cái chém. phăng bêu đầu 
Nghinh ngang đeo ấn phong hầu 
Nhúng tay máu đỏ, người đâu nễ vì 
Cuối cùng loại tướng Trương Phi 
Kế mưu chẳng có dùng khi phá thành 
Khiêng cây vác đá ai kình 
Kẻ chê thô bạo, người khinh ngu đần 
Dẫu như ruột thịt tay chân 
Hiểu câu: Dùng mộc dụng nhân nằm lòng”. 
Hỏi rằng: “Khói cuộn lửa going, 
Khá bày thế thủ thế công cho tường”. 
- Địa hình hiểm trở Bắc Phương 
Rừng già mút mắt Bộc Dương, Hình Đài 
Quân kỳ len lỏi mạn Tây 
Ngựa xe lính bộ đánh ngoài miền Đông 
Âm thầm đêm tối vượt sông 
Ém quân đất hiểm, dìm rồng đáy sâu 
Ải xa, Sơn Hải địa đầu 
Ghe thuyền tốc chiến để cầu thượng phong 
Xẻ khu chia mảng cắt vùng 
Giặc kia ngách bí hang cùng phải tiêu 
Giang Nam hồ lắm ngòi nhiều 
Đầm lầy chằm rộng khó điều đại binh 
Rải người thay dạng đổi hình 
Cải trang thương khách bồng bình bán buôn 
Đó đây kiếm cách lách luồn 
Dò đường lớn nhỏ, coi truông vắn dài 
Dùng mưu bỏ một đánh hai 
Trường An cố giữ không nài hy sinh 
Lửa dồn chụp tới thình lình 
Nghiệp Thành khói bốc, Động Đình lửa lan 
Chực chờ bờ Bắc Trường Giang 
Mở xem túi gấm băng ngang hiệp đồng 
Binh hùng tám vạn chung lòng 
Ngàn cân đè trứng mới mong tranh cường 
Dẹp rồi về cứu Lạc Dương 
Chận đường cứu viện Bắc Phương kéo vào” 
Phán rằng: “Ý hợp tâm đầu 
Mưa rào cứu hạn bấy lâu - thỏa lòng”. 
 
5C- NỖI NHỚ NHUNG 
Mài nanh cọp, giũa móng rồng 
Gọi thêm gió đỡ cánh hồng vút cao 
Giáo trường nung chí anh hào 
Giong xe xáp trận, ôm phao vượt dòng 
Đưa tin, bắn mũi tên đồng 
Mồi châm hỏa pháo, thuốc xông a ngùy 
Ngày thao luyện vút qua đi 
Đêm sao chậm chạp nhớ gì bâng khuâng 
Mộng lan man quẩn quanh thân 
Làng quê mây lạnh phủ lần lối thương 
Số từ chai mặt gió sương 
Đảo chao xác lá, gót vương bụi bùn 
Bao giờ tan lũ dế trùn 
Ải lang bặt bóng cát hồng ngựa say 
Về đi thôi ! Khóm mai gầy 
Vó lùa cầu nhỏ canh chầy trăng thanh 
Cúc vàng chen sắc liễu xanh 
Ráng chiều khói sớm xây thành non tiên 
Ngặt vì khắc khoải tiếng quyên 
Giục trai cắp giáo mang khiên lên đàng 
Huỳnh Sa hương lụn nhang tàn 
Tòa sen phách dựa trái oan sạch rồi 
Hay còn gió núi mây dồi 
Tay ôm yên ngựa ngủ ngồi rừng hoang 
Theo con trăm trận dọc ngang 
Đỡ che tên đạn nguy nan bao ngày 
Mẹ già áo mướp quần gai 
Cơm và lơi nhịp đếm hoài lệ tuôn 
Phên đơn hắt bóng bấc buồn 
Chơn trời xa sợ sóng cuồn biển xanh 
Chị còn liếp cải bờ chanh 
Có hay đầu đã chit vành khăn tang? 
Mấy thu đợi cá trông nhàn 
Biết còn tần tảo lúa nương dâu tằm 
Nhớ người rừng lạnh căm căm 
Nắng thiêu cho nón, mưa dầm giúp tơi 
Nêu cao đạo nghĩa ở đời 
Dễ gì danh lợi đổi dời chơn thân 
Sân mai vằng vặc bóng ngân 
Thả tay lưới sớm, nhấp tuần trà trưa 
Chiều đi Long Ẩn nắng lưa 
Phách sanh sóng điệu đàn xưa Mai Đình 
Biết còn mưa đượm mát nhành 
Hay khô héo cội, vóc hình xanh xao! 
Tưởng người má ửng thẹn đào 
Nói năng khuôn phép ra vào lễ nghi 
Quen hơi bén tiếng mà chi! 
Mong hồng chờ nhạn biết gì âm hao 
Ai xuông lưỡi mác đầu dao 
Để ai thui thủi giọt ngâu đêm trường 
Có còn rẽ tóc soi gương 
Ngâm câu đầu bạc ngóng phương biên đình? 
Hay giờ then lỏng vườn quỳnh 
Cài tram tách bến để mình bơ vơ 
Gặp lại nhau những đợi chờ 
Trăng thờ thẫn gọi cành hờ hũng sương 
Liễu buông cành rũ nách tường 
Xa hun hút đóm cuối đường đìu hiu.
 
5D- ĐÁNH NGHIỆP THÀNH-THÂU PHỤC GIANG HẠ 
Nghiệp Thành mây ố bóng xiêu 
Buốt tê vọng gác buồn thiu lửa huỳnh 
Nửa đêm đánh pháo nổ ình 
Kho lương phựt lửa, quân binh xô bồ 
A Ngùy rải mớ củi khô 
Mùi xông ngộp thở, khói lòa thành trung 
Vọng lâu dòm xuống khắp vùng 
Binh triều chen gót, đuốc thông sáng trời 
Tỏa sao thép lạnh ánh ngời 
Dập dồn diều lửa bời bời bay giăng 
Rắp đem cát đá sông Hằng 
Kêu mưa hú gió lấp bằng biển sâu 
Bất ngờ, dẫu sẵn mưu cao 
Dễ gì bắn sẻ vụt lao qua mành 
Nơi nơi nghiêm nhặt gác canh 
Tay liền cung nõ, mặt thành cắt phiên 
Thế cờ tấn chốt tranh tiên 
Giương xe pháo kích giữ liền thượng phong 
Đêm sâu đùn đặc mây lồng 
Tuyết tê bấc lạnh, giọt rồng điểm ba 
Ngại gì thây đổ máu sa 
Chiến trương tỏ được gan già mới hay 
Yên binh bày trận mặt ngoài 
Thủ Trung xáp tới, tuốt tay gươm trần 
Quyết tâm áp đảo tinh thần 
Đội Liên hườn mã rần rần xông lên 
Da dày phủ ngựa bốn bên 
Giương đao chặn lối, buông tên kín màn 
Câu liêm trận pháp đã dàn 
Quần nhau cân sức ngửa ngang trận tiền 
Vỗ bờm ngựa, dạ đảo điên 
Đâu ngờ lâm bước truân chuyên khốn cùng 
Mồ hôi trán nhểu ròng ròng 
Hét hò sĩ tốt thoát vòng tử sanh 
Chật chen quân địch bao quanh 
Khóa đường lui tới, thế tình nguy nan.
Cả cười, Tuấn Đức chặn đàng 
Điều trăm mã kỵ, quay ngang ngọn chùy 
Mật to gặp phải gan lì 
Hẹn đâu mà gặp cương ghì gườm nhau 
Nửa cân tám lạng đương đầu 
Cầm đồng mấy hiệp thấp cao chưa bày 
Thủ Trung trổ hết thần oai 
Roi da lén rút quất ngay mặt thù 
Đòn ra tay trái chưa thu 
Gươm trường bên phải lướt vù qua vai 
Khom mình, Tuấn Đức vọt ngoài 
Xây lưng giương nõ nhắm ngay yết hầu 
Giặc già lanh mắt hụp đầu 
Đánh choang, tên sắt chạm vào kim khôi 
Nghiệp Thành khói cuộn lửa trôi 
Thủ Trung sốt vó sải hồi viên môn 
Phất cờ gióng trống đuổi dồn 
Chơn không bén đất, Trung hồn phách bay 
Biết không tìm được vận may 
Mặt chay mày đá chạy dài cho xong 
Lũy dài sụp ngã mạn Đông 
Quân triều thả ván đè chông vượt hào 
Mỏi mòn sĩ tốt tiêu hao 
Trương Trung Chí vội phá rào bôn ba 
Ngựa đừ, biếng ngọn roi tra 
Lôi thôi cờ xí, rườm rà tàn quân 
Cây buồn lã ngọn rung rung 
Đắng cay khóe mắt, ngập ngừng lối qua 
Hẳn chừng ngót chục dăm xa 
Gặp binh An Thủ Trung ra hợp đoàn 
Lòng mừng chuyện vãn hỏi han 
Tính sơ tổn thất, luận bàn mưu cơ 
-“Mấy ai lường được chữ ngờ 
Thời suy vận rủi, thế cờ sa tay 
Đọ so chiến trận mới hay 
Châu Thông sáng trí cao tài khó đương”. 
Trung rằng:”Trúng trật chưa tường 
Thầy đồ học lóm mấy đường kiếm cung 
Vắng mèo chuột lắt vẫy vùng 
Thứ ương gàn sánh anh hung, ai hơn! 
Thiên Lương xưa cũng một phồn 
Muống bèo chen đứng giữa bồn quế lan 
Lửa nung biết đá biết vàng 
Mang tên bỏ ải Đồng Quan chạy dài 
Vùi chôn xương nát đồi cây 
Vóc chồn cheo, sức cáo cầy kể chi. 
Châu Thông con lão ra gì 
Mài mò mưu chước Trương Nghi, Võ Hầu 
Nghiệp Thành lưng mật bấy lâu 
Những lo bỏ xác rừng sâu âm thầm”.
Chí rằng:”Nghĩ vậy là lầm 
Giành tranh thiên hạ, nhơn tâm đứng đầu 
Ngựa Yên xưa giẫm Phụng Lâu 
Đất trời mù mịt một bầu hỗn mang 
Là do chính sự nát tan 
Tham quan nhũng nhiễu, trào đàng tranh phân 
Thuế sâu đổ ập đầu dân 
Ngôi cao thiên tử lạt dần mùi hương 
Thừa cơ nuôi mộng bá vương 
Đập cho xã tắc nhà Đường tiêu tan 
Huyền Tôn trốn sảng chạy hoàng 
Lui về Ba Thục, chỉnh trang thế tình 
Dậy oai thần võ anh minh 
Dỗ an trăm họ, thanh bình một phương 
Thôn quê cho đến phố phường 
Trên hòa dưới thuận, yêu thương chung lòng 
Đừng coi nhẹ gã Châu Thông 
Nếp nhà đạo lý, giống dòng binh gia 
Còn thơ, tiếng đã nổi xa 
Vẫy vùng trận bút, xông pha côn quyền 
Tầm nhìn đạt địa thong thiên 
Tuổi non nhưng trí sánh liền Ngọa Long 
Cuộc đua chem. cọp bắt rồng 
Tử Nghi ra sức hợp đồng Châu Lang 
Chuyển xoay biến hóa chiến tràng 
Phép khuôn chắc chắn đáng trang anh hào 
Nhơn nhơn tự đắc làm cao 
Không người dưới mắt trước sau lụy mình”. 
Gian nan lên thác xuống gành 
Ngược xuôi đưa đẩy buồn tanh theo dòng 
Trũng sâu đèo dốc chập chồng 
Chênh vênh đá dựng lạnh lùng thâm nghiêm 
Cựa mình trở giấc chim đêm 
Đường mòn thoai thoải cỏ mềm vờn quanh 
Nhìn lâu Trung Chí dùn mình 
Rắn khoanh cọp núp, phục binh chưa tường 
Rối lòng trăm mối vấn vương 
Mất còn gang tấc liệu lường được đâu 
Đóng quân gác ngọn cây cao 
Bụi lùm giấu dạng, bấm nhau canh phòng 
Chen mây, rạng mặt trời hồng 
Rừng ào lá động, mấy vòng quân vây 
Sương tan cờ phất phơ bay 
Ngươn Hanh xuất trận với vài trăm binh 
Cười rằng:”Con tạo công bình 
Cao bay xa chạy, giấu mình mãi sao! 
Lưới trời lồng lộng trên cao 
Bàn tay nhơ nhớp máu đào - Khó chui 
Rã thây khao thưởng lằng ruồi 
Cọp lôi quạ rỉa, xác vùi xanh cây”. 
Hai bên thủ thế trận bày 
Sấm gầm ngọn kiếm, sét bay đầu chùy 
Lợi Trinh hợp sức Quán Chi 
Điều quân thiện xa, tay ghì nõ cung 
Càn Chơn, Trung Chí, Thủ Trung 
Thế cô đất hiểm buộc lòng giao chinh 
Ngăn luồng sóng dữ Đường binh 
Xe lương rắp nẻo, đá gành che quân 
Xơ rơ bộ kỵ hợp quần 
Mở thong đường máu băng chừng càn ra 
Càn Chơn cương giựt roi tra 
Múa đao xông xáo đuổi nà Quán Chi 
Nắng chiều trãng cỏ xanh rì 
Chén đưa chưa nhắp, tiếng tì thúc thôi 
Giàm danh khóa lợi tanh hôi 
Trái oan đã kết để rồi gặp đây 
Quê xưa lẻ bóng trăng đầy 
Khăn tang ngùi nhớ xác xây nên thành 
Vinh quang vài kẻ tướng khanh 
Biết chăng xương lính rừng xanh lớp hàng 
Binh Yên nát lối tan đàn 
Sa cơ - Gắng gượng khó toan bước cùng 
Thái Sơn nhẹ tựa lông hồng 
Gan vàng chọi với tên đồng được sao! 
Càn Chơn sểnh miếng rơi đao 
Phút giây làm quỉ không đầu nào hay
Dẫn thân vào chốn đọa đày 
Tâm thần rối loạn, hai tay rã rời 
Thủ Trung dẫu muốn đổi dời 
Én đơn đâu dễ kéo trời vào Xuân 
Chỉ mành treo ngọn ngàn cân 
Giữa trùng tên đạn. non thần phách bay 
Nhìn quanh đâu thấy còn ai 
Não lòng, Trung Chí thở dài lặng thinh 
Hà Nam sáu vạn tinh binh 
Cuốn trong bão lửa nát hình tan xương 
Được thua hơn kém đã tường 
Lưng trời tiếng hạc đêm sương giựt mình 
Bước thầm đêm rợn hãi kinh 
Chơn qua đất lạnh, gập ghình truông sâu 
Ngại ngần lởn vởn mây sầu 
Trời hừng hững sáng tới đầu ải quan 
Tư Minh dẫn viện quân sang 
Thân chinh xông trận cứu an Nghiệp Thành 
Truyền rằng:” Đưa trước kỵ binh 
Thuyền bè tập hậu thủy trình Ba Khâu 
Giục giông thét gió đưa mau 
Dốc toàn sức lực đối đầu Châu Lang 
Mông xung, khai lãng giăng hàng 
Phăng phăng lướt sóng Trường Giang ngược dòng 
Trời mu dày đặc sương đông 
Chèo lan khua mái minh mông sông dài 
Chợt đâu pháo nổ inh tai 
Đầu người lố nhố, tên bay kín trời 
Trôi xuôi bè lửa khắp nơi 
Cháy bừng thuyền gỗ giữa vời chông chênh 
Tuốt gươm đỡ gạt bốn bên 
Hối quân lên bộ bến ghềnh lựa chi 
Thót yên, thúc gót ngựa kỳ 
Cương buông , roi quất kể gì gian nan. 
Đầu non thoáng bóng binh dàn 
Quày lưng mang chạy tìm phan ẩn mình 
Thấm mùi sướng khổ nhục vinh 
Tàn quân bại tướng đồn binh Ô Đề 
Chia cay chịu đã chán chê 
Đêm đi ngày lánh lẻn về Bắc Yên 
Tin đưa thắng trận liền liền 
Châu Thông khẩn cấp lịnh truyền tấn binh 
Nhận chìm thủy trại Động Đình 
Diệt quân tiếp ứng cứu thành Du Giang 
Nhồi rơm nhét ngách đào hang 
Đông dương Tây kích đánh tràn Giang Lăng 
Trừ Trung sóng nổi đất bằng 
Liên quân thủy bộ đạp phăng Giang Hoài 
Võ Xương lũy rộng thành dài 
Thế cờ nghiêng lệch co tay hàng đầu 
Trời xui biển hóa cồn dâu 
Nồi kê chưa chin sông sâu nên đồng 
Khói un đốt rụi bầy ong 
Mừng lên khóe mắt, giọt nồng chảy quanh.
 
5E- LỄ HẠ CÔNG – CHÂU THÔNG GẶP LẠI NGƯỜI XƯA 
Thuồng luồng sút móng gãy nanh 
Ngựa phi báo tiệp tin lành trào ca 
Quên đi bùn bụi quan hà 
Tạm nhàn nhã nhấp chén trà vọng lâu 
Nhớ công bồi lũy đấp hào 
Thưởng người sống chết cùng nhau chiến tràng 
Trại dinh lụa đỏ buông màn 
Vẳng xa kèn sáo, giăng hàng hoa đăng 
Đờn ca đào kép Ngũ Lăng 
Ngóng cây qua núi, chèo trăng xuôi dòng 
Nhường nhau nửa hớp rượu nồng 
Chia bùi xẻ ngọt giữa lòng quân quan 
Tiệc hoa canh lụn gần tàn 
Tuần phiên dắt một nữ lang tới hầu 
Vóc mai nhuốm nửa trời sầu 
Đứng chờ rón rén, đôi câu tự tình: 
Gởi rằng: “Chút phận linh đinh 
Vàm sông trôi nổi, bến đình bơ vơ 
Ngô nghê tài mọn dây tơ 
Hát rong độ nhựt đến giờ ba thu 
Cong đuôi beo cọp chạy vù 
Rồng doanh trời thẳm mây mù bay đi 
Lịnh ban nào dám ngươn trì 
Xông sương lướt bụi quản gì tấm thân 
Gió mưa hao tổn tinh thần 
Đường xa nấn ná thôn lân chầy ngày 
Lễ mừng coi hãy còn dài 
Đờn thô hát vụng đôi bài mà chơi”. 
Quân truyền thềm dưới tạm ngồi 
Dạo dây tấu khúc đệm lời xướng ngâm 
Ngón ngà gọt chuốt ngũ âm 
Phím tơ ruột đứt cung cầm máu loang 
Ca rằng: “Chiều đổ non ngàn 
Phân vân nắng úa, bang hoàng nẻo quê 
Êm êm niềm nhớ lén về 
Song thưa lẻ bóng, sao Khuê cuối trời 
Buồng không giọt thảm đầy vơi 
Lá khô ngập lối, nửa vời hoàng hôn 
Gió may chớm lạnh cõi hồn 
Vào mưa, sấm động lũ dồn miên man 
Chuyển mùa lã cánh sen tàn 
Cột xiêu phên đổ một gian tiêu điều 
Nhớ người bước lạc bóng xiêu 
Hành trang dường gói ít nhiều buồn thương 
Mai gầy, mặt dạn gió sương 
Trán in núi sụp, mắt vương biển trồi 
Qua đây đêm muộn lần trôi 
Sóng xa xô tới, nước nhồi lại đi 
Thềm rêu dấu cũ xanh rì 
Động Đình ngực hí, Hợp Phì tên reo 
Ai đi gối kiếm mây đèo 
Buồn se vóc liễu, trăng treo giang đầu 
Đêm rằm, trải chiếu bờ ao 
Ai ngồi đọc sách, mình hầu quay tơ 
“Quay tơ phải giữ mối tơ 
Dầu năm bảy mối vẫn chờ mối ai” 
Mịt mờ tháng rộng năm dài 
Mắt đăm đăm hướng chân ai tấc đàng” 
Tay tiên chuyển lượn sóng lan 
Thoát đi đọng giọt sương ngàn cô đơn 
Âm thanh keo kết chập chờn 
Quyện quanh xoắn xuýt gió vờn liếp tre 
Trầm sâu, dế thở than hè 
Trưa quê tĩnh mịch, tiếng ve kêu sầu 
Hàng cây tê dại gục đầu 
Nghe mưa lất pha6’t trên tàu lá đan 
Lửng cao, non lợt trăng vàng 
Sơn ca vút thẳng rang loang sắc hồng 
Tiếng khoan, chinh phụ nhớ chồng 
Phòng the cay mắt giọt nồng xót xa 
Ruỗi mau, tiếng thúc giục hoa 
Mận mai rộ cánh, liên hà đậm hương 
Trong veo, hơi thoảng nách tường 
Nhặt thưa kẽ trúc, tiếng buồn chậm rơi 
Phổ âm, thay điệu đổi lời 
Phiêu diêu thanh nhạc, tuyệt vời giọng ca 
Rưng rưng khóe, ngấn nước sa 
Người nghe đâu khỏi xót xa cõi lòng 
Tương Như há dễ sánh cùng 
Phụng Cầu Hoàng hẳn thẹn thùng dám so! 
Khói khơi hương lửa ấm lò 
Chắp đôi nến trắng, bày giò phong lan 
Châu Thông vén mép màn loan 
Lịnh viên hầu rượu mời nàng vô trong 
Bao nhiêu oan khổ gánh gồng 
Còn tươi vẻ mặt còn cong nét ngài 
Bụi trần sạm liễu gầy mai 
Vẫn in vóc ngọc, vẫn dài dáng xuân 
Sững sờ, Châu hỏi áng chừng 
“Khá phân danh tánh mựa đừng giấu ta 
Phải Huỳnh nương ở Thạnh hòa? 
Vọng hình trông bóng người xa mắt mòn 
Chơn trần chai đá sườn non 
Đói ăn khát uống héo von tim sầu ?”. 
Cắn môi nàng chỉ cuối đầu 
Lời phân ngắt đoạn, giọt ngâu chan hòa 
Tay lần đãy gấm lấy ra 
Một viên ngọc bích, vuông là, mảnh gương 
Dặm muôn nẻo lạ mười phương 
vắn dài lệ nhớ lệ thương khôn hàn 
Tang bồng ngựa dọc gươm ngang 
Mạng treo đầu kiếm lụy tràn ướt bâu 
Tìm trăng, trăng khuất đã lâu 
Gió khuya lành lạnh day đầu cành ngô.
 
5F- TÂM SỰ VÂN ANH 
Nắng vàng ỏi giọng hít cô 
Liễu giăng tơ mát song hồ mái Tây 
Tiêu Tương tám bức giăng ngoài 
Thả cần câu Vị treo bày bên trong 
Châu rằng: “Trời cũng chìu lòng 
Đền bù chín đợi mười mong bấy chầy 
Phỉ tình tình trước duyên mai 
Nhạn Nam én Bắc từ nay chung nhành 
Lạnh luồng áo bạc mong manh 
Cơm chan giọt thảm riêng dành một thân 
Gót sen hoen vấy bụi trần 
Mây che lối gặp núi ngăn nẻo đời 
Sẩy chơn ven biển góc trời 
Đêm đêm mộng mị trồng vời cố hương 
Dặm dài ngựa chiến giong cương 
Lòng đơn mơ dáng người phương trời nào 
Nỗi nhà gặp khổ sầu sao 
Cánh bèo nắng lửa mưa dầu hôm mai 
Cội xuân tốt nhánh xanh cây 
Hay going bão nổi rụng đầy lá hoa ?”. 
Mặn môi tức tửi ậm à 
Tủi hờn ướt đẫm khăn sa bày tình: 
“Trời kia làm chuyện trớ trinh 
Đày cho khổ nhục để mình gieo neo 
Sóng to ập gãy mái chèo 
Vận xui mải miết cố đeo suốt đường 
Một chiều cùng khách thập phương 
Theo cha lên núi hành hương am thiền 
Lối về gặp bước truân chuyên 
Viên quan huyện dẫn binh Yên một đoàn 
Chật đường cản lối chàng ràng 
Lình kình xe ngựa nghinh ngang giáo cờ 
Đầu bầy ong kiến ngu ngơ 
Chó săn mặt sắt đen mò kiêu căng 
Giở trò hạ cấp lằng xằng 
Xum xoe lưỡi mối miệng lằng tanh hôi 
Trêu hoa mồm chẳng ngượng lời 
Bão going chưa chắc đã dời được non 
Nguyện trời tiết hạnh giữ tròn 
Phận bèo thịt nát xương mòn quản đâu 
Lằng nhằng sờm sỡ giờ lâu 
Dễ gì cú đậu trên đầu cành ngô 
Tên nầy dâm dật tham ô 
Bao nhiêu gái tốt xây mồ trong dinh 
Có người quyết vẹn chữ trinh 
Treo dây đầu vách gieo mình đáy sông 
Mặc ai chuốc lục tô hồng 
Khăng khăng dạ, sống chết, không lỗi thề 
Hổ ngươi bể mặt trâu dê 
Hồ đồ hổn độn lẻn về cho xong 
Vạc kêu trời xám hừng đông 
Xôn xao thầy tớ khóm tòng cội mai 
Gia đinh lính lệ đông vầy 
Roi trường dựng ngược, giáo dài chỉa ngang 
Ngồi nghiêng dựa ngửa sỗ sang 
Nghĩ mình kẻ cả, người sang nhứt đời 
Hất hàm biểu chủ nhà ngồi 
-“Khá khen Huỳnh lão có chồi lan xinh 
Gặp nhau ưng bụng thiệt tình 
Muốn đây với đó gieo nhành trước mai 
Sính nghi rày đà sắp bày 
Đợi giờ huỳnh đạo, định ngày rước dâu”. 
Cha rằng:” Áo vải quần nâu 
Cách chi xứng đáng, con hầu quan trên 
Sẻ chuyền nhánh trúc sao nên 
Ai coi cỏ lác dựa bên lý đào 
Vườn xuân đã mở khóa rào 
Trao chìa phải lứa, gieo cầu đúng nơi 
Dầu cha mẹ sánh biển trời 
Ai đâu lại nỡ nuốt lời với con”.
Liệu không lay chuyển lòng son 
Gã bèn hùng hổ giở đòn gian manh 
Hét truyền châm lửa mái tranh 
Bao nhiêu chắt mót phút đành phủi tay. 
Cẳng xiềng cổ xích gông cây 
Bước sa nước mắt theo bầy yêu tinh 
Chim sầu mất ổ thình lình 
Đời cay nghiệt – nghĩ thương mình - thế thôi 
Mật đường chót lưỡi đầu môi 
Cậy người mối lái, ngọt lời dỗ khuyên 
Cắn răng, lòng chẳng vay nghiêng 
Vọt roi đòn bộng lụy phiền cũng cam 
Then gài kín mít nhà giam 
Vo ve muỗi đóị lũ lam kiếp tù 
Mì khoai nào đủ đền bù 
Nọc căng phơi nắng, đòn thù nát thân 
Được tha, đọa kiếp gia nhân 
Cơm thừa cá cặn, việc quần quật tay 
Chết không chiếu bó thi hài 
Giập đùa chôn đại sơ sài cuối mương 
Sáng ngày chộn rộn công đường 
Họ tên hài rõ Huỳnh Trường sai đâu ! 
Trẻ già đưa tới sân hầu 
Bắt ra trước án cúi đầu quì nghe 
Áo đơn da tái khô se 
Mặt xanh màu lá, vai đè xích gông 
Sai nha phe phẩy quạt lông 
Hai hàng côn sắt bố phòng khít khao 
Mặt mo lão huyện to đầu 
Râu dê mấy cọng mày chau hung tàn 
Mỏ dơi mặt thỏ ác gian 
Sống vô liêm sỉ theo đàn quỉ ma 
Bám vinh hoa lũ mọi già 
Miễn thây căng mỡ miễn nhà giàu sang 
Vỗ bàn đấm ghế oang oang: 
“Tên kia tội trạng khó toàn thây thi 
Học theo Khổng Mạnh làm gì ? 
Văn chương đạo lý ích chi cho đời 
To gan lớn mật bằng trời 
Lịnh trên dám chống, lắm lời điêu ngoa 
Bây đâu! Bày gậy roi da 
Cực hình đọ sức thằng già – Ai hơn ?”. 
Đắng cay thân phụ nào sờn 
Mắng liều một trận thỏa cơn lửa bùng 
Rằng: “Mi là đứa gian hùng 
Cam tâm liếm gót Địch Nhung chia phần 
Cúi lòn mua chữ vinh thân 
Ngoác mồm nói chuyện nghĩa nhân cũng kỳ 
Khom lưng bưng bợ man di 
Nhà tan cửa nát bỏ đi cho đành 
Đon ren đắng mướp chua chanh 
Ép ta bỏ đức chọn danh đặng nào! 
Bạo quyền lũ ngựa bầy trâu 
Đày dân không thể ngóc đầu mới ưng”.
Tía tai đỏ mặt phừng phừng 
Thét quân đóng cọc giăng thừng giữa sân 
Nặng tay trăm trượng đập giần 
Cha già chết thảm trong lần khảo tra 
Chiếu trùm bươn bả khiêng ra 
Đạp nghiêng lấp cạn rừng già phía sau 
Lạnh tanh nhang khói bấy lâu 
Ngày đi dãi nắng đêm thâu trăng mờ 
Phận mình mang kiếp gia nô 
Dằn mâm xáng chén xô bồ uống ăn 
Người hiền gặp cảnh khó khăn 
Phật trời sẽ dắp bù bằng phước sau 
Trong dinh có bác thương đầu 
Cảm thương phận gái má đào oan khiên 
Dạy rằng: “Khuya có một phiên 
Chuyển trăm xe thóc về miền Thương Lang 
Che đầu cải dạng nam trang 
Thắng yên hộ tống theo đoàn quân lương 
Truông đêm rẽ lối giữa đường 
Nép vào rừng rậm tìm phương lánh mình”. 
Y lời trốn lúc bình minh 
Thương cha bạc phận tủi mình đơn thân 
Lâu nay quê chẳng được gần 
Thềm rêu trăng quạnh mấy lần xuân qua” 
Châu rằng: “Bước sẩy chơn sa 
Linh đinh một kiếp lệ hòa nắm cơm 
Đọa đày quần túm áo ôm 
Gìn chung giữ thủy tiếng thơm còn truyền 
Qua hồi vận nước ngửa nghiêng 
Mộ phần cải táng về liền quê hương”. 
Nàng rằng: “Ơn nặng vấn vương 
Lòng người biển rộng má hường cưu mang 
Trèo non cũng nguyện theo chàng 
Đói no sớt chén gian nan chung phần 
Giữ cho trong sạch tinh thần 
Chữ trinh sao được thanh tân mới là 
Nghiêm trang bướm lánh ong xa 
Chăm chăm theo đúng nếp nhà kỷ cương 
Thắp nhang thờ phụng từ đường 
Cử mâm nàng Mạnh, soi gương họ Tào 
Lên dây đờn khúc Bạch Đầu 
Chia cay sẻ đắng trọn câu chung tình.