Poem logo
Poem logo

tiểu sử

Tác giả: TRẦN MINH HẢI
Họ và tên : Trần Minh Hải
Sinh ngày 16-05-1944
Tại xã Mỹ Phong, tỉnh Mỹ Tho . Hiện nay là xã Mỹ Phong, quận Chợ Gạo, tỉnh
Định Tường .
Nội tổ phụ là Trần Văn Khá sinh trưởng tại tỉnh Châu Đốc .
Nội tổ mẫu là Huỳnh Thị Xuyến và thân phụ là Trần Văn Luân sinh trưởng tại
Làng Vĩnh Lợi, tỉnh Gò Công .
Thân mẫu là Võ Thị Tuyên sinh trưởng tại làng Tân Thạch, quận Trúc Giang,
tỉnh Kiến Hòa .

Trước 30-04-1975
* Học sinh trường Tiểu Học Châu Thành Mỹ Tho .
* Học sinh Trung Học Tư Thục Vĩnh Tường Mỹ Tho (Đệ Nhất Cấp) .
* Học sinh trường Trung Học Nguyễn Đình Chiểu Mỹ Tho (Đệ Nhị Cấp) .
* Sinh viên Đại Học khoa Học Sài Gòn .
*Sinh viên sĩ quan Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam , khóa 1 Biên Tập
Viên .
* Phục vụ ngành Cảnh Sát Quốc Gia Việt Nam .

Sau 30-04-1975
*1975-1984 : Tù nhân chính trị .
*1984-1986 : bị quản chế tại thị xã Gò Công .
*Ngày 16-08-1986 bị bắt và biệt giam tại cơ quan Công An tỉnh Tiền Giang
(Định Tường) vì bị buộc tội tham gia tổ chức nhằm lật đổ chính quyền Cộng Sản .
Sau hơn hai năm điều tra nhưng không tìm được bằng chứng để truy tố nên được
trả tự do ngày 05-12-1988 .
*Ngày 25-01-1994 được tị nạn chính trị tại Hoa Kỳ . Hiện cư ngụ tại địa chỉ :
926 Oakridge Drive
Building 919, Apartment 64
Des Moines , Iowa 50314
USA
*Tình trạng gia đình : độc thân .
*Điện thoại số : 1.515.246.0803


***

HÀNH TRÌNH
Sau ngày 30-04-1975

26-06-1975 : xe đưa vào trại tập trung tại quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công sau khi
bị quản thúc tại nhà bởi bộ đội có vỏ trang (khoảng một tiểu đội) .
24-04-1976 : chuyển đến nhà giam Mỹ Tho .
Khoảng đầu tháng 11-1976 bị xiềng hai chân .
09-11-1976 : được mở xiềng rồi bị trói hai tay, đưa lên xe chuyển đến trại giam
Thủ Đức .
31-11-1976 , lúc chiều tối, bị xiềng một tay bằng dây xích chung với một người
bạn tù, xe chở ra bến Tân Cảng, xuống tàu Thương Tín cùng với số đông người
khác .
01-12-1976 : tàu rời bến và ra cửa biển Cần Giờ .
05-12-1976 : tàu đến cảng Hải Phòng vào buổi sáng, tất cả lên xe (loại xe 40 chỗ
ngồi), đoàn xe gồm tám chiếc lên miền Thượng Du Bắc Việt, số xe còn lại không
rõ đi đâu .
06-12-1976 : lúc 03.00 giờ sáng đoàn xe đến Lào Kay rồi vào cổng trại giam, đó
là trại giam Trung Ương số 1. Đầu tháng Giêng, năm 1977 trại cho kiểm tra sức
khỏe tù binh toàn trại, được biết trọng lượng thân thể chỉ còn 38kg (lúc chưa vào
trại nặng 58kg) . Từ đây tất cả tù binh phải hành dịch khổ sai.
19-06-1978 di chuyển đến phân trại k1, trại giam Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú .
22-01-1979 : bài thơ đầu tiên đề tựa “Núi Rừng Vĩnh Phú Vào Xuân” cho tập thơ
Hoa Xương Rồng được sáng tác .
25-04-1982 chuyển đến phân trại K5, trại Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú .
13-10-1982 chuyển đến trại giam Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh .
28-01-1984 được chở ra bến xe đò Kim Liên, Hà Nội, cùng với 10 người khác,
vào buổi chiều tối và ngồi chờ sáng tại đây .
29-01-1984 : sáng sớm, được hướng dẫn đi bộ đến nhà ga Hà Nội, lên tàu hỏa,
nhận giấy ra trại về Nam .
01-02-1984 tàu hỏa đến ga Bình Triệu, Sài Gòn vào buổi sáng (khoảng 10.00 giờ).
Tạm ngụ tại quận 6 Chợ Lớn .
08-02-1984 : bị quản chế tại thị xã Gò Công, địa chỉ 172A đường Liên Tỉnh 50 .
16-08-1986 : bị bắt trở lại, giam tại phòng biệt giam số 10, thuộc cơ quan Công
An tỉnh Tiền Giang (trước là Định Tường) .
12-11-1986 : được chuyển đến khu cấm thuộc trại giam tỉnh Tiền Giang .
05-12-1988 : ra trại vào buổi xế chiều, tạm ngụ tại Mỹ Tho và Sài Gòn .
25-01-1994 : lúc 3 giờ sáng đến phi trường Tân Sơn Nhất, 2 giờ sau phi cơ cất
cánh đi Hong Kong, Tokyo (Nhật), rồi đến Hoa Kỳ .
Hành trình chưa chấm dứt…

***

LỜI GIỚI THIỆU (1)
Của nhà thơ Ý Nga

Thưa quí độc giả

Nếu sau biến cố đau thương 30-04-1975 , dòng thơ nước Việt có những thi
phẩm được viết bởi những người lính Việt Nam Cộng Hòa, với một tấm lòng
cho tổ quốc, cho đồng bào; bằng những lời thơ rất chân tình; bằng một bút pháp
rất đặt sắc và đúng niêm luật như nhà thơ Trần Minh Hải đã viết thì Ý Nga tin
chắc rằng những thế hệ đi sau chúng ta, không những chỉ được thưởng thức thi
tài của những người đã từng đem xương máu ra bảo vệ cho miền Nam Việt Nam
không thôi mà họ còn sẽ quí trọng những chiến sĩ, dù bị bắt buộc buông súng và
phải chịu trăm ngàn cực hình trong tay kẻ thù nhưng vẫn biết dùng ngòi viết như
một vũ khí để tiếp tục chiến đấu cho một Việt Nam tự do .

Từ ngục tù Cộng Sản Việt Nam , với 11 năm, từ Nam ra Bắc (chưa kể khoảng
thời gian 2 năm bị quản chế), tác giả, cũng như bao nhiêu chiến hữu đã phải nếm
đủ mùi vị của một thứ “ trái chua” nhưng Thi Nhân đã biến nó thành những dòng
thơ, như trong bài “Thác Ngàn Đổ Xuống”:

“Mười năm nắng vội mưa mau,
“Trái chua chín ngọt, niềm đau tuyệt vời”.

Địa ngục của bao Người Lính Chưa Chết chính là ... “Thiên-Đường-Xã-Hội-
Chủ-Nghĩa” Việt Nam , là những năm dài bị trả thù bởi một chính sách vô nhân
qua bao nhiêu trại giam . Chúng ta thử nghe nạn nhân cũng là chứng nhân Trần
Minh Hải đã ghi lại một số không nhỏ trong những dòng “Thương Cảm”:

“Non sông chín cõi ngục tù,
“Đọa đày mạt kiếp cho thù cho căm”.

Ý Nga được biết có cả thảy 9 trại tù mà người tù Trần Minh Hải đã bị giam giữ
Trong 11 năm dài ấy, theo thứ tự thời gian như sau:
- Trại giam tại quận Hòa Đồng, tỉnh Gò Công .
- Trại giam tại thị xã Mỹ Tho
- Trại giam Thủ Đức
- Trại giam Trung Ương số 1, tỉnh Hoàng Liên Sơn .
- Phân trại K1, trại giam Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú .
- Phân trại K5, trại giam Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú .
- Trại Nam Hà, tỉnh Hà Nam Ninh .
- Phòng Biệt giam số 10 thuộc Công An tỉnh Tiền Giang (Định Tường) .
- Trại giam tỉnh Tiền Giang (Định Tường) .

Quả thật, bản thân người Cảnh Sát Quốc Gia Trần Minh Hải đã là một nhân
chứng ghi lại nỗi khổ đau cùng cực của những người tù binh, trước đó là chiến sĩ
đã chiến đấu vì lý tưởng quốc gia . Ghi lại, trong 10 năm trời ròng rã, với cơn đói
lã người hàng đêm, trong hoàng cảnh khắc nghiệt của những trại giam, trong nỗi
nhớ nhung gia đình, trong niềm băng khoăng dành cho bao nhiêu thân nhân, bạn
bè … sống bên ngoài, đang cố tìm mọi cách để thoát khỏi Nhà NgụcLớn Việt
Nam và trong niềm đau u uất hằng ngày phải chứng kiến bao nhiêu chiến hữu của
mình đã tuần tự ngã gục trong những “Nhà Ngục Tẫy Não” nhỏ hơn, mà trong ấy
có cả Người Thơ tài hoa của chúng ta .

Xin bạn thơ hãy đọc và hãy để cho những chiếc gai nhức nhối của một loài hoa
quí hiếm giúp chúng ta ôn lại những trang sử buồn thảm của Việt Nam .

Ý Nga kính mời quí Độc Giả lần dở từng trang để cùng chia xẻ nỗi niềm ray
rức và xúc động vô ngần khi ngắm một loài hoa đã sống sót qua một trang sử đau
thương của dân tộc chúng ta: HOA XƯƠNG RỒNG .

Ý Nga
Canada , 7.8.2003

(1)Ghi chú: Lời Giới Thiệu viết cho tập thơ Hoa Xương Rồng ấn hành lần trước
với những bài thơ sáng tác trước năm 2000)

Ý kiến bạn đọc

TÌM KIẾM BÀI THƠ
Nhập từ khóa:
Tìm kiếm