chiếc lá cuối thu
Cuối thu rồi bảng lảng chút heo may
Mùa thay lá, chiếc lá bay thật nhẹ
Sao bình thản, sao vô tư đến thế
Có gì đâu vương vấn để thêm buồn
Từng ngại gì khi đẫm ướt mưa tuôn
Hay nắng rát khiến khô giòn vụn nát
Đã sống hết mình sợ chi mất mát
Về cội rồi để bát ngát chồi xanh
Giờ chỉ là chiếc lá khô mỏng manh
Rơi theo gió cho cảnh thu lãng mạn
Đã từng một thời ngát xanh sáng lạn
Thì sao buồn khi vàng rụng chiều thu
Ngắn ngủi thôi cuộc đời vốn phù du
Bay lượn đậu chiều thu trên thảm cỏ
Nghe cuộc sống vẫn hồi sinh đâu đó
Khẽ cựa mình về cội nhẹ làm sao
Hội tụ, chia ly, tồn tại, hư hao...
Là cuộc sống vì lẽ đời vốn vậy
Nỗi buồn, khổ đau do mình buộc lấy
Hãy nhẹ lòng như lá vậy mà rơi…
…………….
Lời bình của tiến sĩ Bùi Quang Xuân
#
CHIẾC LÁ CUỐI THU: LUẬT CỦA SỰ THANH THẢN TRONG THI PHÁP
Bài viết của Bùi Quang Xuân
Thi phẩm "Chiếc lá cuối thu" của TS. BS Nữ thi sĩ Đỗ Cầm
Giải Mã Tứ Thơ Qua Ngôn Ngữ Tượng Trưng
Thơ ca, như "Tuyển tập về Đặc trưng chung của Thơ" đã khẳng định, không phải là sự tuôn trào ngẫu nhiên mà là một "hệ thống được tổ chức tinh vi" nơi Tứ thơ (Ý nghĩa) và Thi luật (Âm điệu) song hành. Bài thơ "Chiếc lá cuối thu" của Đỗ Nữ thi sĩ Đỗ Cầm là một minh chứng xuất sắc cho sự hài hòa ấy, không chỉ là một thi phẩm trữ tình mà còn là một luận thuyết bằng hình ảnh về Quy luật Vô thường.
Khác biệt lớn nhất của bài thơ nằm ở Tứ thơ – hạt nhân tư tưởng thoát khỏi lối mòn. Chiếc lá rụng trong thi ca thường là biểu tượng của tàn phai (giống như sự sầu buồn của Thơ Mới), nhưng ở đây, nó được nâng lên thành biểu tượng của sự thanh thản tuyệt đối và sống trọn vẹn. Nhà thơ đã sử dụng ngôn ngữ hàm súc và yếu tố tượng trưng để biến cảnh vật mùa thu thành một bài học triết học:
Mùa thay lá, chiếc lá bay thật nhẹ
Sao bình thản, sao vô tư đến thế
Sự "bình thản" và "vô tư" ấy không phải là sự thờ ơ, mà là kết quả của một quá trình chiêm nghiệm sâu sắc từ Cái Tôi trữ tình – một cái tôi đã giác ngộ lẽ đời.
Mối Quan Hệ Giữa Đối Lập và Hồi Sinh
Đỗ Cầm đã khéo léo sử dụng thủ pháp đối lập và nhạc điệu tự nhiên để làm nổi bật chiều sâu tư tưởng. Sự nhẹ nhàng của khoảnh khắc rụng xuống được đặt cạnh sự dữ dội của quá trình sống, khẳng định giá trị của một đời đã "hết mình":
Từng ngại gì khi đẫm ướt mưa tuôn Hay nắng rát khiến khô giòn vụn nát Đã sống hết mình sợ chi mất mát
Khổ thơ này là một sự giải phóng Cái Tôi khỏi nỗi sợ hãi mất mát, tương tự tinh thần Hòa nhập và Cảm hứng Sử thi khi đối diện với gian khó, nhưng với một góc độ cá nhân hơn. Chiếc lá đã hoàn thành sứ mệnh của mình.
Đặc biệt, sự sáng tạo độc đáo của thi sĩ nằm ở triết lý "về cội" đầy lạc quan. Cái chết không phải là điểm dừng, mà là sự tiếp nối:
Về cội rồi để bát ngát chồi xanh
“Giờ chỉ là chiếc lá khô mỏng manh”
“Nghe cuộc sống vẫn hồi sinh đâu đó”
Hình ảnh này là đỉnh cao của yếu tố tượng trưng trong thơ, cho thấy sự tuần hoàn của vũ trụ. Chiếc lá đã dứt bỏ hình hài riêng tư để trở thành "chất liệu" cho sự sống cộng đồng, một sự chuyển hóa từ Cái Tôi hữu hạn sang Cái Ta vĩnh cửu của tự nhiên. Bài thơ, với nhịp điệu khoan thai, như một lời ru triết lý, dẫn dắt người đọc chấp nhận sự vận hành của kiếp "phù du":
Hội tụ, chia ly, tồn tại, hư hao...
Là cuộc sống vì lẽ đời vốn vậy
Ý Tại Ngôn Ngoại Của Sự Buông Bỏ
Sức mạnh của bài thơ nằm ở khả năng hàm súc và đa nghĩa của ngôn từ, đạt đến cảnh giới "Ý tại ngôn ngoại" – ý nằm ngoài lời. Chiếc lá rụng là lời nhắn nhủ, là thông điệp mạnh mẽ nhất của nhà thơ về thái độ sống. Mọi khổ đau đều do "mình buộc lấy", không phải do định mệnh.
Điều tôi tâm đắc nhất chính là lời khuyên cuối cùng: "Hãy nhẹ lòng như lá vậy mà rơi." Đây không chỉ là một lời kết mà là một tiếng vọng Thiền học, khuyến khích con người học cách buông bỏ. Trong bối cảnh đời sống hiện đại đầy áp lực, việc tìm thấy sự thanh thản "bình thản, vô tư" của chiếc lá cuối thu là một phép chữa lành vô giá. Bài thơ của Đỗ Cầm đã chứng minh rằng thi ca chính là hơi thở của linh hồn, được định hình bởi triết lý sống và được nâng cánh bởi sự giản dị của hình thức.
Tháng mười 2025. Tam Hiệp. Đồng Nai
BÙI QUANG XUÂN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Văn Nguyên, & Hà Minh Đức. (2000). Lý luận văn học. Nhà xuất bản Giáo dục.
2. Trần Đình Sử. (2005). Thi pháp học. Nhà xuất bản Đại học Sư phạm.
3. Tuyển tập về Đặc trưng chung của Thơ (Tuyển tập lý luận và phê bình). (Nội bộ Tạp chí Văn học Nghệ thuật).
4. Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên). (2007). Từ điển thuật ngữ văn học. Nxb. Giáo dục.